Hướng đi mới cho văn học Đà Nẵng

Nhà thơ Bùi Công Minh phát biểu tại Hội thảo 50 năm văn học thành phố Đà Nẵng diễn ra vào ngày 6/12/2025. Ảnh: ĐOÀN HẠO LƯƠNG
Quy tụ nhiều thế hệ nhà văn với góc nhìn mới
Hơn 50 năm qua, các tác giả là hội viên Hội Nhà văn thành phố Đà Nẵng thường xuyên và liên tục ra mắt bạn đọc xa gần với nhiều tác phẩm có sức lan tỏa rộng rãi và được trao tặng nhiều giải thưởng văn học quốc gia và quốc tế với các tên tuổi như nhà văn Phan Tứ, Hoàng Châu Ký, Thu Bồn - Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật; Lưu Trùng Dương, Thái Bá Lợi, Thanh Quế - Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật; Vĩnh Quyền - Giải thưởng văn học ASEAN 2021… và rất nhiều các tác giả đoạt giải văn học Trung ương và địa phương.
Nhà thơ Nguyễn Nho Khiêm, Chủ tịch Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật thành phố cho biết, kế thừa truyền thống rực rỡ của các thế hệ đi trước, đội ngũ nhà văn sống và viết tại Đà Nẵng sau 1975 đã nỗ lực kiến tạo diện mạo một nền văn học vừa mang đậm căn cước Quảng Nam - Đà Nẵng, vừa cởi mở hội nhập với văn học cả nước và thế giới. Ở giai đoạn 1975 - 1986, mạch chủ đạo vẫn là cảm hứng sử thi - lãng mạn của một thời “đi hết chiến tranh, bước vào hòa bình”. Tác phẩm tập trung khắc họa hình tượng người chiến sĩ, cán bộ, nhân dân Quảng - Đà trong kháng chiến, đồng thời bước đầu mở sang những trang viết về hậu chiến, tái thiết, những mất mát tinh thần, ám ảnh chiến tranh trong số phận con người.
Trong giai đoạn 1986 - 2000, đổi mới 1986 tạo bước rẽ quan trọng cho văn học Việt Nam nói chung, trong đó có Đà Nẵng. Văn học cả nước dần dịch chuyển từ giọng điệu sử thi sang thế sự - đời tư, từ cái “ta” cộng đồng sang cái “tôi” cá nhân, từ những đề tài chiến tranh trực tiếp sang những phức hợp của hậu chiến, đô thị hóa, kinh tế thị trường. Từ năm 2000 đến nay, đội ngũ nhà văn phát triển nhanh về số lượng và đa dạng về thế hệ. Đến nay, Hội Nhà văn thành phố Đà Nẵng đã quy tụ hơn một trăm hội viên nhiều thế hệ, từ lớp nhà văn lão thành từng đi qua chiến tranh đến lớp tác giả trẻ trưởng thành sau đổi mới.
Nhà thơ Bùi Công Minh cũng cho rằng, sau 1975 đã hình thành một đội ngũ nhà văn, nhà thơ trẻ tiếp nối các nhà văn đi trước, với ý thức trách nhiệm và nhiệt tình công dân, tiếp tục đi vào đề tài chiến tranh cách mạng với cái nhìn mới mẻ.
“Họ được trang bị những tri thức mới, những phương thức sáng tạo mới để nhìn lại quá khứ theo cảm quan riêng của mình. Với những hiểu biết và cảm nhận hiện thực chiến tranh có được từ tư liệu, sách vở, qua lời kể của những người đi trước, cộng với sự tự tin của bản thân người viết, các nhà thơ thế hệ sau 1975 thường tập trung bộc lộ cảm xúc trữ tình thông qua những trăn trở, suy tư về chiến tranh, nhìn chiến tranh với góc nhìn nhân bản, đi sâu số phận con người trong chiến tranh”, nhà thơ Bùi Công Minh chia sẻ.
Bảo đảm tính kế tục
Bên cạnh những thành tựu đạt được, văn học Đà Nẵng cũng còn một số hạn chế. Tuy hằng năm ở Đà Nẵng có từ 10-18 đầu sách văn, thơ được xuất bản, diện mạo thể loại khá phong phú nhưng vẫn còn thiếu những tác phẩm “đỉnh cao” có khả năng mở ra tranh luận học thuật sâu rộng, sống lâu trong trí nhớ bạn đọc. Một số khuynh hướng sáng tác, đặc biệt là bút ký, còn thiên về ca ngợi, thiếu những vấn đề gai góc của đô thị hiện đại.
Để tìm hướng đi mới cho văn học Đà Nẵng, nhà thơ Nguyễn Nho Khiêm cho rằng, việc đổi mới văn học Đà Nẵng cần đặt vào bối cảnh vận động rộng lớn của văn học thế giới đầu thế kỷ 21 với một số xu hướng nổi bật như toàn cầu hóa và “văn học thế giới”; sự trỗi dậy của autofiction và văn học tự truyện; văn học khí hậu và văn học sinh thái; văn học kỹ thuật số, đa phương tiện; các khuynh hướng nữ quyền, hậu thực dân, thiểu số; sự tiếp tục (và biến dạng) của chủ nghĩa hậu hiện đại.
Đà Nẵng là đô thị biển, cửa ngõ giao thương quốc tế, nơi giao thoa của du lịch, di cư, môi trường, văn hóa. Những câu chuyện về Đà Nẵng, bão lũ miền Trung, biến đổi khí hậu, du lịch đại chúng, giao lưu quốc tế, lao động di cư… nếu được viết với chiều sâu tư tưởng và kỹ thuật hiện đại, hoàn toàn có thể tham gia vào đối thoại của văn học thế giới về khí hậu, đô thị, di dân. Đây là hướng mở tự nhiên để văn học Đà Nẵng bước ra khỏi phạm vi “địa phương chí” và tham gia mạng lưới “văn học thế giới từ vùng ngoại biên”.
“Với lịch sử đầy biến động - từ chiến tranh, chia tách, tái lập thành phố, đến đô thị hóa và chuyển đổi kinh tế, Đà Nẵng là “mỏ vàng” ký ức để các nhà văn khai thác. Điều này vừa bắt kịp xu thế thế giới, vừa làm sâu hơn “căn cốt xứ Quảng” trong văn học”, nhà thơ Nguyễn Nho Khiêm nhận định.
Để bảo đảm tính kế tục, thành phố cần có chính sách hỗ trợ các nhà văn trẻ trong sáng tác. Nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ cho rằng, thành phố và Hội Nhà văn thành phố cần có giải pháp hỗ trợ các tác giả trẻ xuất bản và quảng bá tác phẩm trên báo chí. Với văn học thiếu nhi, nhà văn Nguyễn Thị Phú cho rằng, “Trẻ em hôm nay - thế giới ngày mai” không thể chỉ dừng lại ở khẩu hiệu. Mà đó là hành động của cả cộng đồng, là sự xây dựng, bồi đắp con người từ tấm bé. Trong đó, với thiên chức nhà văn, chúng ta có điều kiện góp phần tạo dựng để hình thành một thế hệ công dân mới phát triển toàn diện mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc và hội nhập trong một thế giới mới rộng mở đầy triển vọng.
Cùng với đó, Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật thành phố và Hội Nhà văn cần có các chương trình bồi dưỡng nhà văn trẻ như tham gia trại sáng tác, lớp viết văn tại các không gian văn hóa, chương trình trao đổi với các thành phố kết nghĩa. Đồng thời đẩy mạnh dịch thuật, đưa tác phẩm của nhà văn Đà Nẵng ra tiếng Anh và các ngôn ngữ khác cũng như dịch các tác phẩm tiêu biểu của văn học thế giới, đặc biệt là những xu hướng mới để người viết trong thành phố có điều kiện học hỏi.
(baodanang.vn)