Những tháng năm ấy

10.05.2025
Nguyễn Vĩnh

Những tháng năm ấy

Minh họa Hồ Đình Nam Kha.

Buổi sáng mùa đông năm 1961, sương mai đầm đìa trên từng ngọn cỏ. Người đi chợ sớm thì thầm với nhau: Vừa có người kháng chiến cũ bị thủ tiêu, ném xác xuống bàu. Vài giờ sau, thông tin rõ ràng hơn, người bị giết là anh Nguyễn Khánh Sa, một thanh niên cường tráng của làng Tam Hiệp.

Lòng như lửa đốt, bà Hường cùng chồng và mấy người bà con họ hàng, lật đật vào bàu Ngọc Kinh để tìm. Khi mở bao tời sọc xanh kéo Sa ra, anh bị trói cả tay chân, người tái nhợt, co quắp. Một cây đinh mười phân lút tán, đóng giữa hộp sọ. Đôi mắt anh mở trừng trừng, như đang cố nhìn cho rõ người đã giết mình, vừa như ngạc nhiên tự hỏi: Chống Pháp, đánh Tây lẽ nào có tội?

Bà Nguyễn Thị Hường về làm vợ ông Nguyễn Khánh Sâm, người cùng làng Tam Hiệp, xã Lộc Vĩnh, quận Thường Đức (nay là làng Ngọc Thạch, xã Đại Hồng, huyện Đại Lộc), anh Sa là em chồng, vừa tuổi lên mười. Sa lớn lên trong loạn lạc, cầm súng chống Tây được vài ba năm thì đình chiến. Hiệp định 1954, Sa vừa bước qua tuổi hai mươi, hai anh em được phân công ở lại.

Sau khi lo xong việc chôn cất cho anh Sa, bà Hường vừa đau xót vừa lo lắng. Xót xa vì trong số các em chồng, bà luôn yêu thương Sa nhất, và bà đang tính chuyện mai mối để anh có thể yên bề gia thất. Lo lắng vì sau anh Sa, có thể sẽ đến lượt ông Sâm, chồng bà, bị kẻ thù thủ tiêu.

Cuối bữa cơm chiều, bà Hường đem điều băn khoăn này nói cùng chồng:

- Ông tìm cách thoát ra, hay đi lẫn tránh tạm thời đâu đó. Ở lại đây nguy hiểm quá.

Ông Sâm trầm tư, suy nghĩ:

- Liên lạc đứt tung hết, thoát ra biết về chốn nào. Hơn nữa tui đi, bà ở chắc gì đã yên. Bà có mệnh hệ chi, sáu đứa con dại biết làm thế nào.

Ông Sâm dừng lại, quấn điếu thuốc lá châm lửa bập bập một hơi, phà khói hăng hắc màu trắng đục, thư thả nói tiếp:

- Trước mắt tui lặn xuống, nghe ngóng, chờ đợi thời gian nữa rồi tính. Đêm phải cẩn thận thay đổi chỗ ngủ, hoặc có chỗ ẩn nấp kỹ tại nhà mới được.

Tháng 7 năm 1954, khi Hiệp định đình chiến có hiệu lực. Chính quyền Ngô Đình Diệm vừa tiếp quản nửa nước phía nam, đã thực hiện ruồng bố liên miên. Những vụ giết người tập thể xảy ra thường xuyên như cơm bữa. Sau vụ khe Cổng, gò Mồ Côi… Anh Sa và hai người khác bị thủ tiêu ở bàu Ngọc Kinh, không biết là vụ thứ bao nhiêu trong bảy năm qua trên xã Lộc Vĩnh. Đối tượng bị nhắm tới đầu tiên là những đảng viên có uy tín, người cầm súng kháng Pháp lừng tiếng gan lì. Cách giết người càng về sau càng ghê rợn. Bọn đao phủ chuyên nghiệp lại sợ hồn ma báo oán, mới nghĩ ra cách đóng đinh đỉnh đầu để trấn yểm. Dân gian vẫn truyền khẩu rằng: Người chết bị đóng đinh vào giữa hộp sọ, hồn không thoát ra được nên không thể làm ma để báo thù.

Anh em ông Sâm cùng nhiều người khác, ba năm trước bị tập trung cãi huấn (gọi là tẩy não), sau đó ra sân vận động Lục Nam ngồi xếp bằng sám hối dưới nắng. Hơn mười ngày ông và Sa được thả về đen nhẻm như cục than hầm, cùng với cái án treo: “Đảng viên Cộng sản” đeo trên cổ. Đêm hôm trước, Sa bị lính Bảo an vào nhà bắt dẫn đi và sáng nay là hung tin cùng cái kết bi thảm.

Sau anh Sa bị thủ tiêu, ông Sâm ngày quần quật việc đồng áng, mệt nhừ nhưng tuyệt không dám ngủ trên tấm phản quen thuộc của mình nữa. Hằng đêm, ông lẳng lặng tới nhà anh em họ hàng để ngủ nhờ. Chiều xuống ăn cơm sớm, chờ tới chạng vạng ông kín đáo mang gói đi qua Lập Thạch, đêm khác lại đổi xuống Ngọc Kinh. Có hôm cơm trễ quá, ông leo lên gác nhà mình, phập phồng nằm lẫn trong đống thuốc lá và bồ lúa bắp qua đêm.

Thời gian chậm chạp trôi. Vợ chồng ông Sâm sống trong nơm nớp hết ngày này qua tháng khác, lúc nào cũng phải đề phòng trông trước ngó sau. Năm 1962, xã Lộc Vĩnh bắt đầu chuyển qua đấu tranh quân sự. Việc xuất hiện của Đội vũ trang Đại Lộc ở vùng Ngọc Kinh, dù còn thưa thớt và quy mô nhỏ, nhưng làm cho bà Hường vui thầm. Bà bàn với chồng:

- Ông đang bị theo dõi giám sát, không rục rịch chi được, việc chắp nối liên lạc với tổ chức cứ để tui lo.

Ông Sâm không biết bà Hường sẽ chắp nối liên lạc bằng cách nào, nhưng biết tính bà cẩn trọng, cả quyết nên ông tin cậy không hỏi. Tính khí bà Hường nói là làm, năm bảy ngày một lần, bà vào núi khi thì khe Dom, khi thì khe Đá, giả cách đi kiếm mang mang ăn trầu, đi củi… tìm cách bắt liên lạc. Sau nhiều lần đi không biết mệt, chiều mùa hè năm 1963, sau bữa cơm bà nói nhỏ với ông Sâm:

- Mai, tui với ông mỗi người cái rựa, gói theo mo cơm giả đi chặt róng về làm giàn bí, vào khe Đá để gặp mấy ảnh. Tui có hẹn rồi.

Lần gặp đó thật cảm động, ông Sâm được nghe vắn tắt đường lối, phương pháp đấu tranh. Các công việc cần làm để phá vỡ thế kìm kẹp của đối phương. Ông Sâm rưng rưng không nói nên lời. Thoáng đã tám năm trôi qua, nghĩ lại những ngày tháng đơn độc trong vòng vây cứ thấy dài dằng dặc đến kinh hoàng. Từ nay có đồng đội để chung tay chiến đấu. Trước mặt ông, con đường đầy cam go, mà ông và nhiều người khác phải tiếp tục đi, để giành lại kết quả thời chống Pháp dang dở chưa xong, đó là thống nhất vẹn tròn Tổ quốc. Ông nhận cái chức: Ủy viên Nông hội xã. Nhiệm vụ của ông bí mật vận động, liên kết nông dân giúp cơm gạo nuôi quân, chuẩn bị phá bung “Quốc sách ấp chiến lược”.

Bà Hường leo lên tảng đá cao, mắt láo liên tứ phía canh gác cho hai ông Sâm và Tám họp. Chiều mát hai vợ chồng vui vẻ, hì hụi kéo róng ra về.

* * *

Sau hàng loạt các hoạt động hiệu quả của Đội vũ trang, năm 1964 toàn xã Lộc Vĩnh phá được “Quốc sách ấp chiến lược”. Ủy ban hành chánh xã, cùng với trung đội Bảo an tháo chạy, co cụm về quanh Chi khu Thường Đức. Nhóm Quốc dân đảng, chỉ điểm cũng ùn ùn tháo chạy theo. Bà Hường thở phào như trút được gánh nặng. Mối hiểm nguy bắt bớ, trả thù người thân của bà chấm dứt. Không khí tự do choáng ngợp đất trời, lòng bà bồng bềnh say. Nhưng niềm vui ngắn chẳng tày gang. Chi khu Thường Đức như con bạch tuộc, cứ mươi ngày nửa tháng lại thò vòi ra chụp, quấn đâu đó. Đạn bay vun vút trên đầu. Cuộc đấu tranh công khai bằng súng đạn, đã đến lúc một mất một còn.

Năm 1965, trước phong trào “Ba sẵn sàng”, anh trai cả Nguyễn Khánh Sơn mới mười bảy tuổi nằng nặc đòi lên đường. Bà Hường cười hỏi:

- Con chịu nỗi gian khổ không?

- Mọi người chịu được con chịu được. Anh Sơn hăng hái trả lời.

- Ác liệt hy sinh nữa, chịu nỗi không?

- Dạ, đánh nhau thì có ác liệt, có thương vong… con không sợ.

Bà Hường vui thầm, gật đầu. Bà xuôi đò qua chợ Hà Nha mua xấp vải tám, về cắt may cho Sơn hai bộ đồ mới. Mua đôi dép su tốt vừa chân. Anh Sơn ghi tên vào Đội vũ trang huyện, (tiền thân của Đại đội 1 anh hùng huyện Đại Lộc ngày nay). Hôm anh đeo gùi lên đường, bà chỉ dặn:

- Không được bỏ chạy, không được đầu hàng, làm xấu mặt gia đình và họ tộc nghe chưa. Cố cho bằng anh, bằng em hỉ.

Tháng 4 năm 1966, buổi sáng còn mờ sương, máy bay quần lượn ném bom lượn trên đầu. Mọi người nhớn nhác chưa biết chuyện gì, đã thấy đàn trực thăng H34, như bầy chuồn chuồn sà đậu xuống bãi sông Hà Vy. Không lâu sau, tiếng súng rộ lên, đạn bay rào rào lúc thưa lúc nhặt. Bà Hường dắt díu con, cùng cả làng Tam Hiệp đưa nhau vào chân núi Ngọc Kinh trú ẩn. Trận đánh kéo dài hai đêm ba ngày, lính Mỹ thương vong nặng rút chạy. Đội Vũ trang huyện cùng dân quân Lộc Vĩnh đã bẻ gãy chiến thuật trực thăng vận hiện đại của quân đội Mỹ, có hỏa lực vượt trội đầu tiên trên đất Quảng Nam

- Đà Nẵng. Cha con anh Sơn được chỉ huy khen ngợi dũng cảm gan lì, tiêu hao được nhiều sinh lực Mỹ.

Giai đoạn này, chính quyền Sài Gòn nhận được sự hỗ trợ của Mỹ, tổ chức đánh phá bom pháo rất ác liệt. Sau thất bại ở bãi Hà Vy, cứ sau vài ngày hoặc nửa tháng lại có một trận bom. Máy bay khu trục, cánh dơi sà xuống sát ngọn tre ngắm nghía đánh sập từng ngôi nhà một. Pháo thì vô chừng, có khi ngày đêm mấy lượt bắn vãi khắp nơi. Trước tình hình đó bà Hường bàn với ông Sâm:

- Bom pháo như ri sản xuất không được, luẩn quẩn chết cả. Ông với thằng Sơn, thằng Lân ở lại bám làng chiến đấu, tui dẫn mấy đứa nhỏ tìm chỗ làm ăn, kiếm gạo gửi về.

Tính vậy nhưng chưa đi được. Sau ngày Mỹ đổ quân xuống Hà Vy không lâu, liên quân Thường Đức - Đại Lộc điều động lực lượng lớn từ Núi Lở lên, động Hà Sống sang, Thường Đức xuống, mở đợt càn quét tát dân toàn xã Lộc Vĩnh. Đây là kế hoạch “tát nước bắt cá” của chính quyền Sài Gòn, nhắm tới mục tiêu: Cắt đứt nguồn nhân lực và hậu cần của kháng chiến. Phá hủy toàn bộ nhà ở, biến các khu dân cư thành vùng trắng, để người dân không còn tơ tưởng quay về hay trụ bám làm ăn nữa.

Buổi sáng hôm ấy ông Sâm dẫn theo Lân, may mắn chạy thoát vào núi. Bà Hường và đám con nhỏ, đang nấp dưới hầm trú ẩn trước sân thì bị lôi lên. Dưới vành nón sắt sùm sụp, gã lính Biệt động quân sắc phục rằn ri vừa châm lửa đốt nhà, vừa giương súng quắc mắt nhìn bà Hường đanh giọng dữ dằn quát:

- Mụ kia! Đi mau, tiếc cái chi nữa mà xớ rớ chưa chịu đi? Muốn chết hử?

Trước họng súng đen ngòm lăm lăm chỉa về phía mình, bà Hường biết rằng nó sẵn sàng nhả đạn vào bà và các con. Chỉ kịp quơ ít mùng mền quần áo chất vào đầu gióng, đầu kia mớ khoai lang ít gạo và vài cái nồi nấu cũ kỹ.

Quảy gánh lên vai trước khi rời đi, bà Hường ngoái nhìn lần cuối, ngôi nhà thân yêu bốc cháy ngùn ngụt. Nuốt ực nỗi đau xót vào lòng, í ới dắt theo đàn con nheo nhóc bươn bả qua sông.

Ngày hôm sau bà tìm mua mấy cây tre, chục tranh sen. Mẹ con tựa nhau cất cái chòi nhỏ đụt mưa tránh nắng phía mép sông, gần chợ Hà Nha. Có chỗ nương náu qua đêm, nhưng nơi ở mới này cục đất ném gà không có, biết lấy gì bỏ vào bốn cái miệng đang ăn đang lớn kia chứ?

Nghỉ vài ngày cho hoàn hồn, hôm nay bà lội quanh các xóm, các làng lân cận kiếm kế sinh nhai. Chỉ có rau lang, rau muống là nhiều. Mỗi chiều bà quảy gánh đi thu mua, sáng hôm sau ra chợ ngồi bán. Thời gian đầu mẹ con bữa no bữa đói, dần dà cũng đủ gạo qua ngày.

Trời chớm vào đông rả rích mưa. Thoắt đã hơn một năm đất khách. Chiều nọ bà áo tơi, quang gánh lên Hà Thanh mua rau, thì gặp người quen bên kia sông mới sang. Hàn huyên mấy câu, mới hay anh Sơn bị tàu bay Mỹ bắn chết ở khe Tre. Bà Hường lau nước mắt quay về, bỏ phiên chợ mai. Đêm đó, bà thao thức ôm cô út nhỏ vào lòng, hướng về quê nhà lặng lẽ nằm khóc một mình.

Năm 1967, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tiến hành thanh lọc số dân Lộc Vĩnh ở Hà Nha. Gia đình nào có người theo cộng sản, được gom đưa ra bãi trống ngoài cầu Chính Cửu, để cô lập quản thúc. Bà Hường thấy thế nguy, hôm sau giả vờ đi thăm họ hàng, mẹ con lên xe khách đi thẳng luôn ra làng Đa Phước, xã Hòa Khánh, nương nhờ nhà người em họ. Nơi đây tập trung dân tứ xứ lánh nạn, chính quyền Cộng hòa của ông tổng Thiệu có tài giỏi cách mấy, cũng chẳng thể biết rõ lai lịch, gia cảnh từng người.

Hòa Khánh người đông, nên gánh rau muống của bà Hường bán được, bà dành dụm mua vở sách, cho các con tới trường kiếm cái chữ. Dành tiền mua gạo, thi thoảng gửi về cho ông Sâm và Lân ở quê. Nhiều đêm gió mưa hun hút nơi xứ người, bà chợt quặn lòng nỗi nhớ chồng da diết. Bà cố giấu tiếng thở dài xa vắng, khi đêm về trở mình phía nào cũng trống. Rồi bà lại nhớ những đứa con khôi ngô, hiền lành của mình. Bà thương anh Sơn mới đánh trận đầu mà gan dạ, một mình vào tận chỗ Mỹ nghỉ đêm ở Hà Vy, dùng lựu đạn quần nhau với cả tiểu đội. Bà nhẹ lòng, cười mỉm như vừa được an ủi: “Quả là con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh”.

* * *

Cuộc chiến ngày một khốc liệt. Lính Mỹ hàng đêm ra ngoài mua dâm và ma túy, tụm năm tụm ba đi nghêu ngao trên đường. Dòng xe quân sự chạy tấp nập ngược xuôi, chở theo toàn súng đạn. Nhìn những ông lính Mỹ cao kều dềnh dàng, có ông đen thui dữ tợn, bà Hường lại liên tưởng đến lính tây Ma Rốc ngày xưa, sợ quá len lén giấu mặt.

Một hôm lòng bà Hường thấp thỏm bất an. Hình ảnh ông Sâm và Lân cứ chập chờn ẩn hiện. Nhớ chồng, nhớ con quá, bà Hường bỏ buổi chợ bắt xe về Hà Thanh đứng bên này sông ngó qua… Làng Tam Hiệp vắng lặng, không một bóng người. Cánh đồng phù sa ven sông Vu Gia, xưa là vùng bắp bạt ngàn nay um tùm lau sậy. Bà muốn kêu thật to: “Ông Sâm ơi, con Sơn ơi, Lân ơi…”. Nhưng tiếng kêu cứ khản đặc, mắc nghẹn lại đâu đó trong cổ. Bà gạt nước mắt, liêu xiêu như người mất hồn đón xe trở ra.

Thời gian lặng lẽ trôi, lặng lẽ tới mức không ai để ý nữa, nhưng chiến tranh thì khác: Chết chóc và ồn ào. Bom đạn ở các miền quê heo hút đã lan rộng ra tới phố. Nhiều đêm bà Hường nghe tiếng đạn riu ríu, từ phía đèo Hải Vân bay vào Đà Nẵng. Còi báo động hú lên inh ỏi. Pháo sáng thắp trắng trời, rồi bom pháo đánh trả ùng oàng thâu đêm suốt sáng. Bà ôm cô út vào lòng, mơ màng thấy bình minh ngày mới thật gần.

Buổi chiều hè năm 1970, nắng còn rất gắt, bà Hường quang gánh sắp đi thu mua rau thì có người đàn ông trung niên tìm gặp:

- Chị là vợ anh Sâm phải không?

- Dạ phải, có chi không anh? Bà Hường hồi hộp hỏi lại.

- Chị hãy bình tĩnh khi nghe tôi nói chuyện này. Coi chừng tai mắt chung Khách nhỏ giọng nói tiếp: Anh và cháu đã hy sinh rồi chị ạ!

Trân trối nhìn người khách, như chưa tin vào tai mình. Bà Hường hai hàm răng đánh bù cạp va nhau lập cập, run run hỏi:

- Chết hết rồi à… là lúc nào, ở đâu?

- Anh bị lính địa phương quân từ động Hà Sống qua sông phục kích, hy sinh ngoài bãi Hà Sau anh ba tuần, thì cháu Lân dính pháo ở Ngọc Kinh. Anh và cháu được mọi người đưa về chôn cất ở khe Dom chị ạ.

Bà Hường chết điếng, người đờ đẫn như khúc gỗ, toàn thân tê dại. Duy nhất chỉ có đôi mắt mở to bất động, nước từ trong ấy tuôn ra nhỏ giọt không ngừng. Lòng bà đau tựa gai cào muối xát, như có từng đoạn ruột đứt ra. Người khách quay đi từ lâu, biến mất vào dòng người và xe cộ hối hả. Bà Hường vịn vách ván gượng cho khỏi ngã nhào, cố lần bước vào chỗ nằm. Ngoài kia, nhạt nhòa hoàng hôn đang dần buông xuống.

Lần đó bà Hường rời rã, nằm liệt giường hơn ba ngày. Toàn thân bà suy sụp như không còn sức để thở, nhưng rồi cơm áo, gạo tiền cho bốn người con trẻ dại đã kéo bà ngồi dậy. Phải mạnh mẽ vượt lên đau đớn, vì bà là chỗ dựa duy nhất hiện nay cho cái gia đình mòn khuyết này. Nuốt vội miếng cơm, cô con gái nhỏ vừa nấu, bà Hường tìm cái lon sữa bò rửa sạch, vào tro bếp đóng lên vách phên giữa trại. Bà mua thẻ hương về thắp đỏ cắm vào nồi hương mới lập, lầm thầm khấn vái điều gì mỗi bà mới biết. Buổi chiều bà lại tất tả nén đau thương, quảy gánh đi mua rau các làng lân cận cho kịp chợ mai.

Năm 1972, người con trai thứ ba, anh Nguyễn Khánh Quy đã vào tuổi mười bảy. Một hôm bà nói với anh:

- Cha con, anh Sơn, anh Lân đã nằm xuống với quê cả rồi. Đến lượt Hãy tìm đường về quê nhà mà chiến đấu. Các em vài năm nữa về sau.

Anh Quy chỉ “dạ” một tiếng nhỏ nhẹ, không nói thêm lời nào. Anh lặng lẽ chuyển sách vở cho người em liền kề, để dành năm sau học. Chuẩn bị cho ngày anh đi, bà Hường lội chợ Hòa Khánh kín đáo sắm cho con bộ quần áo mới, một ít thuốc tây trị cảm sốt thông thường dự phòng. Tối đó, cả nhà ăn chung bữa mỳ quảng chia tay. Sáng hôm sau anh bắt xe về Hà Thanh, đêm ôm chiếc can nhựa 10 lít lội sông qua Hà Vy, tìm gặp Đội dân quân xã bắt đầu những ngày tháng trận mạc của mình. Anh Quy đi rồi, nhà vắng thêm một người. Bà Hường lại giữ nỗi âu lo, thấp thỏm cho riêng mình.

Anh Quy đi chưa bao lâu, một hôm bà Hường trông thấy nhiều xe chạy từ phía bắc vào, lỉnh kỉnh chở đầy dân tỵ nạn. Hỏi thăm mãi, mới hay là người vùng Quảng Trị - Thừa Thiên. Bà Hường khấp khởi trong lòng, đoán rằng chiến tranh sắp tới hồi mãn cuộc, thống nhất đã cận kề. Mà đúng thật: Hiệp định đình chiến Paris ra đời. Bà Hường bắt đầu gói ghém nhúm tài sản ít ỏi vào quang gánh, hớn hở sửa soạn hồi hương.

Tuy nhiên, mọi chuyện đâu có dễ dàng như bà Hường nghĩ. Sau hiệp định, chỉ có những người lính Mỹ cao kều vắng đi mà thôi. Bom vẫn rơi, đại bác vẫn nổ. Dòng xe quân sự vẫn nối đuôi nhau, ngược xuôi khắp nẻo. Bà Hường chợt hiểu ông tổng Thiệu đã lật kèo. Thủ đoạn này với bà không còn xa lạ gì. Ít nhất bà đã gặp đến lần thứ hai, một thứ trò hề chính trị nguy hiểm.

Nhưng bà Hường không phải chờ đợi lâu. Năm 1974, Quân giải phóng đánh tan cứ điểm Thường Đức, tin này làm bà Hường vui đến nghẹn ngào, vì nơi đó là quê nhà thân yêu của bà. Tháng 4 năm 1975, niềm vui càng òa vỡ. Hòa bình rồi. Kết thúc chiến tranh rồi! Đây mới là hòa bình thật, thống nhất thật. Bà ôm mặt hu hu ngồi khóc. Với bà nước mắt ngỡ như đã cạn, vậy mà chảy ướt đầm hai má nhăn nheo. Giọt nước mắt lần này có vui, có buồn lẫn lộn.

* * *

Bà Hường thu xếp dẫn ba người con trở về làng Tam Hiệp, dựng lại nhà trên nền cũ. Đêm đầu tiên trải lá chuối nằm, bà trằn trọc không chợp được mắt. Bà nhớ thương những người con rứt ruột đẻ ra, nhớ từng thói quen của mỗi chàng trai trẻ ấy: Sơn dễ tính, chỉ cần đĩa rau lang luộc chấm mắm cái, thêm chút ớt thế là hít hà vui như ăn giỗ. Lân cũng vậy, bát canh rau muống là hết lon gạo cơm ngon lành… Bà nhớ ông Sâm, nhớ cái dáng cao cao gầy gầy bước đi khoan thai mà như vội vàng rảo chạy. Nhớ ông quần xăn móng lợn, nằm võng đọc truyện Tàu thích chí cười rung nhà. Nhớ cả khói thuốc lá thơm hăng hắc, cái mùi đất ba châu xứ sở phảng phất từ da thịt của ông…

Không còn phải gồng mình chống đỡ với tai bay vạ gió, phải dũng cảm chèo chống tần tảo nuôi đàn con thơ dại, người đàn bà mạnh mẽ, can trường của bà Hường bỗng đi đâu mất. Trong bà bây giờ chỉ còn lại người đàn bà nhu mì, thương con và chiều chồng cố hữu. Người đàn bà ấy bất chợt chênh vênh chòng chành. Bà xa làng đã mười năm, cũng ngần đó năm xa chồng và con yêu dấu, những người bà ngày nhớ đêm mong. Vậy mà ngày hòa bình trở về, người ra đi chiến đấu ấy không một ai quay lại cùng bà. Họ hóa thành đất nước, hóa thành nhành cây ngọn cỏ, hớn hở trong niềm vui chung hôm nay. Họ hồn nhiên đi về phía trước, mãi mãi để lại lòng bà nỗi thương nhớ mênh mông.

Khi sao hôm xuống núi, bà Hường thiếp ngủ cùng cánh gió rười rượi, thổi dọc triền sông Vu Gia dưới bầu trời đầy sao xa thẳm.

N.V