Hợp âm trầm tháng 7

26.07.2022
Tháng 7 linh thiêng, tháng 7 tri ân, tháng 7 nghĩa tình. Cứ mỗi dịp tháng 7 về, trong lòng mỗi người ai cũng lắng lại khúc ca bi tráng một thời chiến tranh khói lửa. Một gam trầm da diết, sâu lắng ngân lên vang vọng và lan tỏa bởi “Bài ca không quên” đó là âm vang của những cuộc đời chưa bao giờ yên nghỉ. Đó là giai điệu thiết tha, trầm lắng, bi hùng vọng lên từ đất, ngân xuống từ trời.

Hợp âm trầm tháng 7

Hợp âm trầm tháng 7 chính là tiếng lòng đồng vọng mà mỗi thanh âm mang cả tiếng sông, tiếng núi, khúc bổng, khúc trầm. Sao có thể cầm lòng được trước thổn thức khúc ca “Màu hoa đỏ”: “Có người lính/ Mùa xuân ấy ra đi từ đó không về/ Dòng tên anh khắc vào đá núi/ Mây ngàn hóa bóng cây che/ Chiều biên cương trắng trời sương núi/ Mẹ già mỏi mắt nhìn theo”. Các anh đã hóa thân vào đất nước, đã tạc thành “Dáng đứng Việt Nam” (Lê Anh Xuân), các anh đã “Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi!” ( Nam Hà).

Hợp âm trầm tháng 7, chúng ta đi từ Bắc vào Nam gặp bao nghĩa trang liệt sĩ. Đó là nghĩa trang Điện Biên Phủ có 4 ngôi mộ có tên, trong đó có tới 640 phần mộ không tên. Trong 4 ngôi mộ có tên là Anh hùng Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai trong trận đánh mở màn ngày 13/3/1954 và Anh hùng Trần Can hy sinh ngày 7/5/1954 lúc chiến dịch toàn thắng.

Các anh đã về đây cùng chung chiến hào đánh lấn với áo trấn thủ 36 đường chỉ may ngang dọc như độ nén quả bộc phá mà trái tim là kíp nổ nụ xòe. Các anh sống mãi với hình ảnh người lính phất cao lá cờ “Quyết chiến, quyết thắng” trên tấm huy hiệu Điện Biên Phủ lấp lánh, phập phồng theo nhịp đập trái tim người lính. Và Vị Xuyên hôm nay, ta đứng lặng người trước hàng hàng bia mộ bên sườn núi đá vôi nham nhở, thoảng trong gió còn mùi khói đạn thuốc súng chưa tan.

Qua Ngã ba Đồng Lộc, 10 ngôi mộ của 10 trinh nữ thanh niên xung phong như 10 phím đàn rung đến cõi lòng sâu thẳm, nghẹn ngào tiếng gọi “Cúc ơi” trong bài thơ gọi hồn liệt sĩ của người bạn đồng đội Yến Thanh: “Tiểu đội đã về xếp một hàng ngang/ Cúc ơi, em ở đâu không về tập hợp”. Cái hàng ngang 9 cỗ quan tài phủ quốc kỳ màu đỏ chỉ chờ Hồ Thị Cúc, người được tìm bới sau cùng. Bây giờ, trong nghĩa trang, các cô vẫn quây quần bên nhau hàng trước, hàng sau cùng chung đội ngũ dưới tán cây bồ kết. Mỗi nấm mộ là một phím đàn, một cuộc đời, một số phận, nhưng có một tên chung đều là thanh niên xung phong, đều là “Còn chưa kịp ngỏ lời yêu”, hy sinh ở tuổi đôi mươi khi còn quá trẻ.

Và “Hang 8 cô” ở Quảng Bình bị bom Mỹ đánh sập chặn lối cửa hang như một hộp đàn giữ lại, nén lại bao âm thanh nghẹn tắt, cuối cùng để từ đó âm vang một hợp âm trầm day dứt khôn nguôi. Chỉ trong một địa bàn eo thắt miền Trung của 3 tỉnh: Quảng Bình - Hà Tĩnh - Nghệ An mà đã có 3 địa chỉ đỏ ngoài Ngã ba Đồng Lộc, Hang 8 cô là “Huyền thoại Truông Bồn”. Tất cả họ hy sinh dù thời điểm khác nhau, nhưng tình huống lại bất ngờ, hiếm có, ít ai ngờ tới.

Đó là khi chỉ còn vài giờ nữa sẽ là điểm mốc thời gian 0 giờ, ngày 1/11/1968, giặc Mỹ sẽ thực hiện “ném bom hạn chế” trên miền Bắc, thế mà 13 thanh niên xung phong ở Ngã ba Truông Bồn hy sinh trước cánh cửa ước mơ. 10 cô gái Đồng Lộc trong buổi chiều định mệnh khi tốp máy bay Mỹ đã bay ra biển, bỗng một chiếc quay lại ném quả bom còn sót xuống 10 chiếc nón trắng như 10 cánh cò trắng muốt trong màu đất đỏ bụi đường bên sườn đồi núi Trọ Voi bạt ngàn hoa sim tím.

Và Trường Sơn, có một Trường Sơn náo nức, trẻ trung, phơi phới: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm/ Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây” (Phạm Tiến Duật). Có một Trường Sơn hào hùng với khí thế: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu). Nhưng chiến tranh đi qua, có một nghĩa trang Trường Sơn với hàng ngàn bia mộ quy tập theo từng địa danh địa phương còn bao ngôi mộ chưa tên, còn bao hài cốt nằm trong hẻm đá, khe suối.

Đêm đêm, đom đóm chập chờn, ngày ngày bướm trắng dập dờn. Tiếng chuông ngân vang với tán cây bồ đề bên nghĩa trang tỏa bóng. Ở đó có: “Mười nghìn tấm bia, còn mười nghìn nữa/ Mười nghìn đồng đội nằm rải Trường Sơn/ Mười nghìn hài cốt chưa về khói hương” (Nguyễn Hữu Quý). Nhà thơ quân đội Nguyễn Đức Mậu đã từng có một thống kê xót xa lòng trong trường ca “Sư đoàn”: “Nếu đồng đội về đây đông đủ/ Sư đoàn tôi sẽ thành mấy sư đoàn”.

Hợp âm trầm tháng 7 khi từ Trường Sơn ra với Trường Sa. Ôi biển Tổ quốc thân yêu trong bọt ngầu sóng trắng dựng lên bao tượng đài trắng. Đó là con đường mòn Hồ Chí Minh trên biển mà tôi gọi là con - đường - thức: “Bỗng thức dậy trong ta/ Biển muôn đời vẫn thẳm/ Sóng muôn đời vẫn trắng/ Muối muôn đời vẫn mặn/ Máu muôn đời vẫn thắm/ Con đường mòn trên biển/ Có mòn đâu”. Các liệt sĩ của đoàn tàu không số xương cốt đã hóa thành san hô nằm dưới đáy biển. Và trên các đảo nhỏ khơi xa còn có bao ngôi mộ gió.

Ở nghĩa trang Hàng Dương (Côn Đảo) có bao liệt sĩ, chí sĩ cách mạng nằm xuống bên giấc nôi sóng biển êm đềm. Một Võ Thị Sáu kiên trung, bất khuất hy sinh khi còn rất trẻ, ngôi mộ linh thiêng của “Cô Sáu” khiến quân thù khiếp đảm, run sợ. Hợp âm trầm của biển cả vỗ về mà thăm thẳm biết bao.

Nhìn lên trời cao, tôi bắt gặp sắc cầu vồng tháng 7 bắc từ đất liền ra biển lung linh và kỳ diệu. Ánh cầu vồng giao thoa bao nỗi niềm, đan xen bao tâm trạng. Cầu vồng tháng 7 chính là ánh xạ hào quang của sự hy sinh, mất mát. Cầu vồng ảo ảnh nhưng lan tỏa một khát vọng, một ước ao da diết của những người đã ngã xuống với người đang sống hôm nay...

(bienphong.com.vn)