Tám mươi năm văn học nghệ thuật và cách mạng
Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống Ngành Văn hóa. Ảnh: QĐND
Bất cứ cuộc cách mạng nào cũng có một thời kỳ vận động. Cùng với tuyên truyền miệng, báo chí và văn học đóng một vai trò hết sức quan trọng để gieo mầm lý tưởng, gây dựng phong trào, tổ chức lực lượng trong thời kỳ đầu ấy và đồng hành suốt trong cả quá trình; đó là một lực lượng đặc biệt, sức mạnh đặc biệt làm nên mọi chiến thắng. Điều đó càng phù hợp với nguyên lý cách mạng vô sản, với quy luật của nghệ thuật khi xác định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng và nghệ thuật là thứ có thể tác động mạnh mẽ nhất, sâu xa nhất vào tâm hồn, tình cảm của quần chúng nhân dân.
Văn học cách mạng Việt Nam được bắt nguồn trực tiếp từ dòng văn học yêu nước. Đầu thế kỷ 20, những tác phẩm của Phan Bội Châu đã thức tỉnh cả một dân tộc, nhất là tầng lớp thanh niên:
Chẳng thèm chơi, chẳng thèm mặc, chẳng thèm ăn
Đúc gan sắt để dời non lấp bể
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ
(Bài ca chúc tết thanh niên)
Trên những bước đời tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy một nghề không phải để mưu sinh mà là một vũ khí chiến đấu: báo chí và văn học. Tuyên ngôn trên số đầu của báo Le Paria (Người cùng khổ) ra ngày 1-4-1922 khẳng định: “Sứ mệnh của nó đã rõ ràng: Giải phóng con người.” Từ những năm đó, cùng với Tâm địa thực dân, Vấn đề dân bản xứ, Bản án chế độ thực dân Pháp…; những tác phẩm văn học của Nguyễn Ái Quốc như Động vật học, Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Vi hành, Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu, Con rồng tre… đã làm rúng động chế độ thực dân Pháp và khiến Người bị theo dõi đặc biệt. Louis Arnous, một viên mật thám ở Bộ Thuộc địa Pháp đã thốt lên như một tiên đoán vào năm 20 của thế kỷ 20: "Con người thanh niên mảnh khảnh và đầy sức sống này có thể là người sẽ đặt cây chữ thập cáo chung lên nền thống trị của chúng ta ở Đông Dương" (Hồng Hà, Thời thanh niên của Bác Hồ, NXB Thanh niên, 1998, tr. 67).
Có thể nói, Bác Hồ là người sáng lập, người thầy của văn học và báo chí cách mạng Việt Nam.
Trong Nhật ký trong tù, Người đã khẳng định: Nay ở trong thơ nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết xung phong. Trong kháng chiến chống Pháp, Người đòi hỏi người cầm bút phải là người chiến sĩ. Nhà báo - chiến sĩ, nhà văn - chiến sĩ là một đặc điểm nổi bật, cơ bản nhất của báo chí và văn học nghệ thuật cách mạng. Ta có thể thấy rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về văn nghệ qua những phát biểu trực tiếp. Trong Thư gửi anh em văn hóa và trí thức Nam Bộ ngày 25-5-1947, Người viết: “Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà, mà anh em văn hóa và trí thức phải làm cũng như là những chiến sĩ anh dũng trong cuộc kháng chiến để tranh lại quyền thống nhất và độc lập cho Tổ quốc.” Ở Thư gửi Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai, ngày 15-7-1948, Người lại khẳng định: “Trong sự nghiệp vĩ đại kháng chiến, kiến quốc của nhân dân ta, văn hóa gánh một phần rất quan trọng... Các nhà văn hóa ta phải có những tác phẩm xứng đáng chẳng những để biểu dương sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc bây giờ mà còn để lưu truyền những gương mẫu oanh liệt kháng chiến kiến quốc của con cháu đời sau.” Ðến Thư gửi các họa sĩ nhân dịp Triển lãm hội họa năm 1951, Người xác định rõ hơn: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có một nhiệm vụ nhất định, tức là: phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh. Ðể làm tròn nhiệm vụ, chiến sĩ nghệ thuật cần có lập trường vững, tư tưởng đúng, nói tóm lại là phải đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết.”
Nghệ thuật cách mạng là con đẻ của cách mạng. Đồng thời, nghệ thuật cách mạng đẻ ra những chiến sĩ cách mạng, phong trào cách mạng và những thành công của cách mạng. Trường hợp Bài ca cách mạng của Tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Nghệ An Đặng Chánh Kỷ trong Xô viết Nghệ Tĩnh là một ví dụ rất tiêu biểu. Thơ Tố Hữu, Lê Viết Lượng, Hoàng Văn Thụ… đã thôi thúc lớp lớp thanh niên bước vào đường tranh đấu. Những tác phẩm như vậy, chính là nguồn năng lượng to lớn của cách mạng, không chỉ hôm qua mà còn cho hôm nay và mai sau.
Hội Văn hóa cứu quốc được thành lập năm 1943 và đó là một lực lượng làm nên thành công của Cách mạng Tháng Tám.
Và đến lượt nó, Cách mạng Tháng Tám đã đẻ ra những nhà văn nghệ, nền văn nghệ cách mạng khỏe khoắn, trẻ trung. Mây của ta, trời thắm của ta/ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, câu thơ ấy của Tố Hữu đã nói lên sự cao sáng, hồ hởi của lòng người và đất trời; sự cao trong của một cuộc cách mạng, một chế độ. Nó làm cho ta ghi nhớ, xúc động không nguôi cái thuở ban đầu cao trong ấy, để mãi mãi quyết đem hết tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải quyết bảo vệ độc lập, bảo vệ cái đẹp của lý tưởng.
*
Tôi ra đời mười năm sau ngày cách mạng thành công. Và bây giờ đã 80 năm nền dân chủ cộng hoà trên đất Việt. Nhưng đọc thơ văn hồi ấy tôi vẫn thấy phấn chấn, tự hào, như chính mình từng được tham dự. Tôi như reo với rừng cờ trong lời ca của nhạc sĩ Xuân Oanh: Cờ bay muôn nơi, tung ánh sao vàng, Máu pha tươi hồng trên lá cờ đi khắp chốn giang sơn (19-8). Tôi như bay với Huế tháng Tám của Tố Hữu: Chừ đây Huế, Huế ơi! Xiềng gông xưa đã gãy/ Hãy bay lên! Sông núi của ta rồi! Tôi như nghe Trần Mai Ninh hồi hộp: Cả Tổ quốc đến khai trường hạnh phúc… Với tráng ca Ngọn quốc kỳ, nhà thơ Xuân Diệu đã diễn tả niềm hạnh phúc lớn lao của nhân dân ta khi giành được độc lập. Nhà thơ trân trọng chọn hình tượng thiêng liêng là lá cờ Tổ quốc để bày tỏ cảm xúc trào dâng của mình cũng như cả dân tộc khi ấy: Có mấy bữa mà Việt Nam thắm cả/ Khắp Việt Nam cờ mọc với lòng dân. Đến Nguyễn Tuân, nhà văn lãng mạn mà cổ kính, xa lạ với lớp bình dân, cao ngạo, hững hờ với thời cuộc cũng “Mây thu 1946 bừng lên những màu rực rỡ của một cuộc triển lãm trong vị lai và, dựng theo chiều dọc trời xanh, lắm lớp mây vững đẹp như một nền tin tưởng” (Ngày đầy tuổi tôi cách mạng). Nam Cao với Nhật ký ở rừng tự sự: “Cách mạng đã đổi hẳn óc mình. Kháng chiến chẳng những làm già dặn thêm khối óc đã đổi mới kia mà còn thay đổi ngay chính thân thể mình.” Vũ Hoàng Chương một nhà thơ từng lấy say rượu, đắm say những thú vui có thể coi là đồi trụy để quên đi phận đời nô lệ tủi nhục: Say đi em! Say đi em!/ Say cho lơi lả ánh đèn/ Cho cung bậc ngả nghiêng, cho điên rồ xác thịt/ Rượu, rượu nữa! và quên quên hết! Vậy mà cách mạng đã làm một cuộc tái sinh vĩ đại cho tâm hồn. Và ông đã có những vần thơ rực đỏ niềm vui về đất nước ngày cách mạng thành công: Ba mươi sáu phố, ngày hôm ấy/ Là những nhành sông đỏ sóng cờ/ Chói lọi sao vàng, hoa vĩ đại/ Năm cánh hoa xoè trên năm cửa ô (Nhớ về Hà Nội vàng son).
*
Phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, bao nhiêu người con ưu tú của dân tộc đã ngã xuống trong đó có những văn nghệ sĩ tài năng. Họ chết thành khí thiêng sông núi, thành hồn thiêng của văn học nghệ thuật Việt Nam, một nền văn học nghệ thuật lấy sự sinh tồn của Tổ quốc, khát vọng của nhân dân làm cảm hứng chủ đạo.
Di sản của tròn một thế kỷ nghệ thuật cách mạng - tính từ những tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc là hết sức đồ sộ. Có bản nhạc đã trở thành Quốc ca. Có rất nhiều những bài hát đi cùng năm tháng. Có những tác phẩm hội hoạ đã làm nên một thời đại vàng son, rực rỡ của nghệ thuật tạo hình. Bên cạnh gia tài đồ sộ có thể nói chủ đạo của văn học, các ngành nghệ thuật khác đã góp phần xứng đáng xây nên lâu đài nghệ thuật cách mạng Việt Nam vĩ đại, có sức lan tỏa muôn sau. Có được thành tựu ấy, như Nguyễn Đình Thi từng nói: “Văn nghệ phụng sự kháng chiến, nhưng chính kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sống mới.”
Đó là mối quan hệ máu thịt. Là một bước phát triển mang tính thời đại khi ngọn bút không quên cái tôi nhưng đã biết hòa chung cái tôi và cái ta của toàn dân tộc, bám sát và có mặt ở những điểm nóng bỏng, nhạy cảm nhất của cuộc sống. Cũng cần nhắc lại một nguyên lý: chính hiện thực mới là người mẹ vĩ đại nhất của nghệ thuật; chính tư tưởng nhân dân mới là điều làm nên sự vĩnh hằng. Bởi vì tác phẩm nghệ thuật không chỉ là bức tranh, bài thơ, bản nhạc mà hơn tất cả là ấn tượng của nó được lưu giữ trong ký ức nhân dân.
*
“Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ” (V.I.Lênin, Toàn tập, NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1979, tập 37, tr.145). Không chỉ là sự tự vệ bằng mũi súng. Tự vệ bằng những giá trị tinh thần bền bỉ. Làm được điều đó, chỉ có thể là văn học nghệ thuật. Một nhà lãnh đạo, một chính thể biết trân trọng, phát huy sức mạnh của văn học nghệ thuật là dấu hiệu của thịnh trị, của một chế độ nhân đạo.
(baovannghe.vn)