Thanh Quế và món nợ với người đã ngã xuống

20.07.2020

Nhà thơ Thanh Quế thuộc dạng “gừng càng già càng cay”, càng lớn tuổi viết càng nhiều càng hay. Ông là tác giả của hơn 40 tập thơ, truyện ngắn, bút ký, chân dung văn học, được trao Giải thưởng Nhà nước về VHNT năm 2012. Gần đây, NXB Quân đội nhân dân đã ấn hành tập thơ mới Nơi phòng đợi khá ấn tượng của ông. Đọc Thanh Quế người ta có cảm giác trang văn của ông được kết tinh từ nước mắt của chính ông và máu thiêng của đồng nghiệp thân thiết đã hy sinh.

Thanh Quế và món nợ với người đã ngã xuống

Người xứ Nẫu lãnh đạo văn nghệ xứ Quảng

Nhà thơ Thanh Quế họ Phan, sinh năm 1945 ở Tuy An - Phú Yên, tập kết ra Bắc học trường học sinh miền Nam ở Hà Đông, tốt nghiệp Khoa Sử Trường đại học Tổng hợp Hà Nội, vào chiến trường Khu 5 tham gia chiến đấu từ năm 1969. Sau ngày đất nước thống nhất, ông sống cùng gia đình ở Đà Nẵng, nhưng luôn gắn bó với quê hương Phú Yên. Có lúc ông ra Hà Nội làm biên tập thơ cho tạp chí Văn Nghệ Quân Đội, tưởng chừng ở luôn thủ đô, nhưng rồi ông bất ngờ quay trở về Đà Nẵng.

Nhắc đến Thanh Quế mọi người thường nhớ đến hai câu thơ “Trước nhà em sông Vu Gia/ Sau nhà em cũng lại là dòng sông”. Hai câu đó trong bài thơ Trước nhà em sông Vu Gia ông viết tặng cho một người đẹp đất Quảng từ thời còn chiến tranh, về sau trở thành người bạn đời chung thuỷ suốt đời của nhau. Và có lẽ cũng vì mối lương duyên ấy mà ông không trở về Phú Yên, chọn Đà Nẵng làm quê hương thứ hai của mình.

Ở xứ Quảng nhưng giọng nói nhà thơ Thanh Quế vẫn rặt xứ Nẫu, cả tính cách con người và khí chất thơ cũng vậy. Người xứ Nẫu gặp ông thấy rất Phú Yên. Còn người xứ Quảng thì xem ông thực sự là của Đà Nẵng. Có bạn văn còn bảo, sẽ thật trống vắng nếu mai đây Đà Nẵng không còn thấy một người nhỏ con chuyên đội mũ bêrê, áo bỏ trong quần gọn gàng, đạpxe chầm chậm thảnh thơi trên đường phố đến với anh em ở hội văn nghệ. Hiền lành và thẳng thắn, bộc trực và bao dung, nhà thơ Thanh Quế được đồng nghiệp các thế hệ ở Đà Nẵng tin yêu, nể trọng.

Chẳng những “tạm trú” mà nhà thơ chơn chất xứ Nẫu còn trở thành lãnh đạo chủ chốt văn nghệ xứ Quảng “hay cãi”. Ngoài cái chức Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá VII, ông còn từng là Phó Chủ tịch Hội VHNT tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng kiêm Tổng biên tập tạp chí Đất Quảng, Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội VHNTTP Đà Nẵng, Chủ tịch đầu tiên của Hội Nhà văn TP Đà Nẵng kiêm Tổng biên tập tạp chí Non Nước. Với vị thế của mình, ông góp phần phát hiện, nâng đỡ nhiều cây bút trẻ xứ Quảng thành danh như Nguyễn Kim Huy, Hồ Trung Tú, Bùi Tự Lực, Nguyễn Tam Mỹ,… đồng thời còn che chở giúp họ vượt qua nhiều tai nạn văn chương.

Lần nào ra Đà Nẵng tôi cũng tìm đến thăm nhà thơ Thanh Quế ở khu chúng cư trước đây vốn là trại sáng tác của Quân khu 5. Trong chuyến công tác xứ sông Hàn gần đây chúng tôi cũng đến thăm nhà thơ đồng hương và được ôngký tặng hai tác phẩm mới xuất bản: Bút ký & chân dung chọn lọc và tập thơ Nơi phòng đợi. Ông bảo, một cuốn cung cấp nhiều tư liệu quý, một cuốn các bạn trẻ đọc để biết thơ… người lớn tuổi!

 

Từ cười xoà đến cười mỉm

Từ thời còn chiến tranh, nhà thơ Thanh Quế có bài thơ Thăm chồng viết tháng 01/1973, được nhiều người yêu thích. Bài thơ 7 chữ gồm 24 câu kể chuyện một chị cán bộ binh vận xã Hoà Định Đông bấy giờ thuộc huyện Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên “lặn lội trèo non đi thăm chồng”, với con nhỏ bồng trước ngực và gùi bánh ngọt sau lưng. Anh chồng bộ đội vừa thắng trận, được cấp trên cho nghỉ phép đôi ba ngày để đón vợ con cách xa đã mấy năm. Trong lúc “Anh chồng ôm con hun chùn chụt” thì chị vợ đon đả pha trà, sắp bánh ngọt bưng ra mời đồng đội của chồng. Câu chuyện tưởng chẳng có gì nếu như không có khổ thơ cuối đầy bất ngờ:

“Lính ta vui bữa liên hoan ngọt

Thơm má thằng cu kêu chút chút

Khi ngoảnh lại nhìn hai vợ chồng

Họ đã biến đi đằng nào mất”.

Thơ Thanh Quế là vậy, ngôn ngữ mộc mạc, cấu tứ chặt chẽ, bất ngờ và hóm hỉnh. Càng về sau này thơ ông càng kiệm lời, nhưng vẫn luôn dựng tứ kỹ càng, ý tưởng hàm súc, thấm đẫm triết lý nhân sinh. Cũng càng về sau, thơ ông không còn những nụ cười xoà như trong bài Thăm chồng, thay vào đó là những nụ cười mỉm đớn đau day dứt. Điều đó thể hiện rõ nét trong tập thơ Nơi phòng đợi,với những bài thơ rất ngắn như châm ngôn sắc sảo. Ngẫm về Cuộc đời, ông viết:

“Cuộc đời

Ôm hôn đứa con béo tròn

Hắt hủi

Bầy con gầy trơ xương”

Ở trong bài Cuộc đua, ông chiêm nghiệm:

Rất nhiều năm tôi mới nghĩ được điều này:

Cuộc đời mỗi chúng ta

Nhờ chạy đua với thần chết

Mà làm nên nhiều việc”.

Suy tư về Lịch sử,ông thảng thốt:

Lịch sử nhiều khi nhầm lẫn

Người ta tôn vinh hay vùi dập một con người

Để lại một bể máu và nước mắt”.

Quan sát Con người đương đại, ông cảnh tỉnh:

“Chúng ta

Ngày càng xa lánh mọi người

Xa lánh xã hội

Để ép mình dẹp lại

Nằm gọn trong ví tiền”.

Nhìn nhận quan hệ giữa người với ngườitrong bài Chẳng ai bênh vực, ông cay đắng:

“Chẳng ai bênh vực

Người bị kẻ khác đánh

Họ bận xun xoe

Kẻ đánh người khác”

Rồi ông nhếch mép cười với Chúng ta thích được khen:

Chúng ta thích được khen

Nên những người khen ta vây quanh ta chật cứng

Đến nỗi những kẻ định chê ta

Chẳng bao giờ dám bén mảng…”

Và có lẽ đau hơn hết là thói vô cảm của con người hiện đại mà ông “gói” lại trong Kẻ sống nhờ đầy day dứt: “Trước nỗi đau của người/ Hắn vẫn lạnh như tiền/ Trước niềm vui của người/ Hắn trơ trơ như đá/ Nhìn qua cửa tò vò/ Như một kẻ nhìn trộm/ Hắn nhận xét cuộc đời/ Sống ở trên trái đất/ Hắn như kẻ sống nhờ”.

 

Nặng nghĩa trọng tình đồng nghiệp đã hy sinh

Thanh Quế sáng tác nhiều thơ nhưng cũng khá thành công về truyện ký. Đặc biệt mảng ký sự chân dung văn học của ông không chỉ là nguồn tư liệu quý về đồng đội, đồng nghiệp một thời vào sinh ra tử, mà mỗi chân dung được dựng bằng cấu tứ như một truyện ngắn. Trong đó, xúc động nhất là những bài viết ông tái hiện hình ảnh những nhà văn đã ngã xuống trên chiến trường, mỗi người một tính cách, một số phận, một sự nghiệp đã góp phần làm nên những điều phi thường cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và cho văn học.

Nhà thơ Lê Anh Xuân (Ca Lê Hiến) chính là người đã khuyên Thanh Quế thi vào Khoa Sử Trường đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1963, rồi trở thành thầy trò của nhau khi thi sĩ quê Bến Tre dạy môn Lịch sử Văn hoá Hy La ở khoa này. Và cũng chính từ lời khuyên và tấm gương của Ca Lê Hiến, Thanh Quế đã tiếp bước trở về miền Nam chiến đấu và sáng tác. Trong bài viết Ca Lê Hiến tha thiết trở về quê nội, nhà thơ Thanh Quế cho hay: “Ca Lê Hiến là một người đẹp trai, dong dỏng cao, có đôi mắt xám mơ màng và bộ tóc quăn dày rất đẹp. Anh lại lành tính, lúc nào cũng mỉm cười. Có lần, anh bất ngờ xuống tìm tôi để đưa xem một bài thơ của anh, thấy tôi đang cãi lộn với một người bạn cùng lớp vì một chuyện gì đấy, anh Hiến dắt tay tôi ra góc nhà: - Thôi mà, thôi mà, em phải để tâm sức cho những việc lớn như làm thơ chẳng hạn”.

Với nhà văn Dương Thị Xuân Quý (Dương Thị Minh Hương), trong bài Người con gái gầy yếu và mạnh mẽ, nhà thơ Thanh Quế nhìn lại: “Dương Thị Xuân Quý đã sống một cuộc đời sôi nổi của một nhà báo, một nhà văn cách mạng: chị làm bất cứ việc gì, đi bất cứ đâu, sống bất cứ trong hoàn cảnh nào cũng thoải mái, cũng hào hứng. Chị không thuộc loại những cô gái thích quẩn quanh trong bốn bức tường của cuộc sống gia đình chật hẹp, yên vui và đầy đủ tiện nghi. Chị như một con chim luôn thích phóng mình trong khoảng trời cao rộng, nhưng không phải những khoảng trời bình yên. Chị luôn tìm chỗ đứng ở nơi khó khăn gian khổ”.

Giống như nhà văn Dương Thị Xuân Quý, nhà văn Chu Cẩm Phong cũng bám trụ chiến trường Khu 5 cho đến hơi thở cuối cùng. Trong bài Nhớ Chu Cẩm Phong trong cái rét tháng giêng, nhà thơ Thanh Quế hồi tưởng: “Dạo đó, để thực hiện “mỗi ngày một nửa lon gạo”, Chu Cẩm Phong quyết định cơ quan phải phát rẫy rừng già bên kia bờ Nước Nghêu để trồng lúa. Công việc chủ yếu của phát rẫy rừng già là đốn cây to. Chu Cẩm Phong bán chiếc nhẫn mà mẹ anh gửi từ Hội An lên cho anh để mua dụng cụ sản xuất và sắm một cái rìu. Anh rất ưng ý với cái rìu mua được: nó bén và nhẹ. Anh thường ra suối vừa mài nó vừa mỉm cười: - Thế này thì cây nào không gục”.

Nhà thơ Thanh Quế cũng dành nhiều trang viết chân thực và xúc động về cá tính hơi cực đoan và tài năng của nhà văn liệt sĩ Nguyễn Thi (Nguyễn Ngọc Tấn), đặc biệt là ước nguyện xung phong vào chiến trường Nam Bộ tháng 5-1962: “Chắc nhiều người chưa biết con người này từng bị ho ra máu vì những năm lang thang khổ cực kiếm sống và đang giấu thầy thuốc về bệnh kiết lỵ để khỏi lỡ chuyến đi, đã vất vả trên con đường hành trình dài ngày như thế nào? Phải nói là anh đi “bằng đầu”, bằng ý chí” (Nguyễn Thi - nhà văn tôi yêu mến). Với nhà thơ Ngọc Anh, tác giả của Bóng cây kơnia mà một thời gian dài bài thơ này cùng nhiều bài thơ khác của chính ông chỉ đề “phỏng dịch” dân ca Tây Nguyên khi gửi ra miền Bắc đăng báo, nhà thơ Thanh Quế viết: “Ông phải “giấu tên” để đề cao thơ các dân tộc Tây Nguyên đang chống Mỹ, mặt khác cũng phù hợp với đức tính lặng lẽ khiêm tốn của ông”. Nhà thơ Thanh Quế cũng dành tình cảm tiếc nuối nhà phê bình trẻ tài năng Hồng Tân, quê Sài Gòn, tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội, nghiên cứu về văn học Việt Nam hiện đại. Nhà phê bình Hồng Tân từng có những bài viết chính xác, mang tính phát hiện về các tập thơ Những tiếng thân yêu của nhà thơ Khương Hữu Dụng, Tiếng gà gáy của Ca Lê Hiến,… trước khi về Nam và sớm hy sinh.

Một trong những nhà văn liệt sĩ mà nhà thơ Thanh Quế tái hiện chân dung sâu sắc nhất, gây cho người đọc nhiều ngạc nhiên, là khi ông viết về tác giả bài Cuộc chia ly màu đỏ. Nhà thơ Nguyễn Mỹ và nhà thơ Thanh Quế cùng đồng hương huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Nhà thơ Nguyễn Mỹ cùng anh ruột là nhạc sĩ Nhật Lai - tác giả ca khúc Hà Tây quê lụa và nhạc kịch Bên bờ Krông Pa quen thuộc, sớm tham gia cách mạng, tập kết ra Bắc học tập rồi xung phong trở về Nam. Mặc dù đã là nhà thơ thành danh khi còn ở Hà Nội với Cuộc chia ly màu đỏ, nhưng khi Nguyễn Mỹ về chiến trường Khu 5 lại không được tin dùng ở cơ quan văn nghệ, báo chí mà lại đưa ra đơn vị sản xuất và binh vận làm ca dao. Nỗi lao đao lận đận đối với nhà thơ Nguyễn Mỹ không chỉ lúc sống mà còn theo ông đến lúc chết và mãi sau này nữa…

Những nỗi đau oan khuất mà nhà thơ Nguyễn Mỹ và gia đình gánh chịu cũng là những góc khuất đầy bi kịch đè nặng lên nhiều số phận, nhiều gia đình do chiến tranh gây ra. Dù cho về sau những người còn sống có nhận ra sai lầm hoặc sửa chữa thì nỗi đau đớn ấy, như câu thơ Thanh Quế, đã: “Để lại một bể máu và nước mắt”!

Phan Hoàng
(baovannghe.com.vn)