Còn lại mảnh sao rơi - tri âm bên kia văn bản

02.10.2025
Nguyễn Quang Hưng

Còn lại mảnh sao rơi - tri âm bên kia văn bản

Tập sách Còn lại mảnh sao rơi của Nguyễn Minh Hùng

Người đọc đã phiêu du với những áng thơ tự do hay từng “đối thoại” trong các tác phẩm phê bình văn học của Nguyễn Minh Hùng sẽ tiếp tục tìm thấy trọn vẹn hơn con người và phong cách thơ ca lẫn dấu ấn nghệ thuật của ông khi đọc Còn lại mảnh sao rơi (NXB Hội Nhà văn 2025).

* Cấu trúc văn bản như một hành trình đối thoại hai chiều

Không chỉ độc đáo từ việc sử dụng hình ảnh và ngôn từ để xây dựng nhan đề tập sách, tác giả có lẽ đã tạo nên niềm hứng khởi qua việc tổ chức cấu trúc văn bản từ hai phần rõ ràng. Phần I là các bài phê bình, cảm nhận, tiểu luận,... do tác giả dày công thực hiện trong thời gian dài, gồm những bài viết về các tác giả, tác phẩm từ trung đại đến hiện đại,… Phần II, người đọc sẽ tiếp cận những góc nhìn của các nhà nghiên cứu về thơ và phê bình của chính Nguyễn Minh Hùng. Cấu trúc sách thể hiện tư duy phê bình theo hướng tri âm; hành trình “đối thoại song phương” biểu hiện rõ nét của một quan niệm phê bình không giáo điều, không độc đoán, tôn trọng sự đa dạng của cảm thụ và tư duy. Những  trải  nghiệm và lắng đọng từ những năm tháng sống, dạy học và viết đã đi vào tác phẩm một cách uyển chuyển và tự nhiên như chính con người và cách sống của ông.

Sự phản hồi hai chiều này rất hiếm thấy trong các tuyển tập phê bình. Điều đó không chỉ ở sự sắp xếp bản thảo mà khởi nguồn từ hai công việc, hai tâm thế, hai chủ thể - người sáng tác và nhà phê bình - trong một tác giả.

*Phong cách phê bình tri âm

Câu thơ đề từ Mà tang thương còn lại mảnh sao rơi của Hàn Mặc Tử được trích xuất thành nhan đề tập sách như một quan niệm, một cách nhìn về vẻ đẹp và số phận văn chương. Những mảnh sao rơi lung linh từng vụn ánh sáng trong vũ trụ thi ca vỡ ra, bàng bạc, vô cùng. Việc chọn hình ảnh thi ca ấy đã nói lên ít nhiều dấu ấn một nhà thơ - nhà phê bình mang phong cách tri âm của tác giả. Ông không xem phê bình như một diễn ngôn lý trí khô khan mà như một cách thắp lại cảm xúc, làm sống dậy những mảnh linh hồn văn chương nằm lặng yên trên trang giấy.

Còn lại mảnh sao rơi không chỉ là lựa chọn mang tính biểu cảm mà có lẽ là một tuyên ngôn thầm lặng của Nguyễn Minh Hùng. Đó là cách ông nhắn gửi về điều còn lại sau mọi biến thiên, sau những đợt sóng ngôn từ là tinh thể của cái Đẹp, của sự cảm hứng và tư duy nghệ thuật ngân nga sau trang sách. Đó còn là sự thể hiện một thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực, một cách cảm thụ, nhìn nhận, giải minh thế giới và con người của chính tác giả.

Với Còn lại mảnh sao rơi, người đọc không chỉ tìm thấy một tập phê bình thơ mà còn bắt gặp giọng văn và lối tư duy phê bình đồng hành với thi ca và bạn đọc. Tác giả không đứng ở vị trí của người thuyết giảng, không lấy lý luận để làm việc soi sáng mà với tâm thế của người lắng nghe, nhập cuộc, gõ nhẹ cánh cửa thơ, rồi bước vào với tất cả kính trọng, yêu thương và tỉnh táo cần thiết. Ông không xem phê bình là sự mổ xẻ mà là một hình thức tiếp nhận và đối thoại sáng tạo, nơi những câu hỏi đôi khi trở thành chìa khóa cho cảm nhận  thẩm mĩ, nơi những liên tưởng  bất  ngờ  mở ra những tầng nghĩa khác, nơi cái không thể giải thích cũng có quyền tồn tại song song với cái lý giải được bằng tri thức văn học, triết học và sự từng trải, chiêm nghiệm của đời sống. Ông lặng lẽ đi tìm những nút thắt, những ẩn giấu, những thông điệp thẩm mỹ trong thinh lặng; nhiều trang viết khiến lòng người đọc như thắt lại là vì lẽ ấy. Đôi lúc dường như ông thoát khỏi vai trò người  phân tích, bình phẩm để “chung sống” với hình tượng, để nói thay, để biện minh cho những ẩn ức phía sau ngôn ngữ. Trong bài viết Thúy Kiều làm thơ -  thi  ca  oan  trái  hay  văn  chương  vô mệnh, ngòi bút ông lạnh tanh, bình tĩnh phát hiện của một người  phê bình nhưng cách sử dụng hình ảnh, ngôn từ và giọng điệu khiến tác giả không còn là người ngoài cuộc được nữa: “Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng người đọc “nghe” Thúy Kiều chơi khúc bạc mệnh oán - bài ca viết riêng cho mình từ ngày con gái để làm một dự báo số phận, một thấu đạt chỗ kết thúc bi kịch đời mình. Từ Bốn dây như khóc như than ở nhà họ Hoạn đến Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay trước mặt Hồ Tôn Hiến là cấp độ và sắc độ thể nhập khốc liệt của nhạc âm. Câu thơ bỏ qua lối so sánh (như) biến thành một thi ảnh ấn tượng mà gần như hiếm có trong thơ xưa: Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay. Theo tôi, đây là một trong dòng thơ (6 chữ) hay nhất và đau nhất Truyện Kiều. Từ lệ rơi đến máu chảy là kết thúc một đoạn trường: Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau; Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây... “Khúc bạc mệnh ấy là bức khốc văn không lời của Tố Như khóc tặng người tri kỷ. Khốc văn ấy mới đủ sức làm rơi nước mắt vốn cạn kiệt lâu rồi của quan Tổng đốc đang say men chiến thắng. Ngẫm ra, Nguyễn Du còn cho Hồ Tôn Hiến chút tính người sót lại trong chi tiết ấy. Còn bao kẻ cường quyền không biết rơi lệ mới kinh! Chưa phải Kim Trọng, chẳng thể Thúc Sinh, không là Từ Hải, chính Nguyễn Du mới là tri kỷ đích thực của đời Kiều. Kiều nhờ ông tái tạo và vĩnh viễn hóa Cái Đẹp mang kiếp bi ai. Ông nương tựa vào Kiều, Kiều nhờ ông mà mãi mãi. Ông và nàng là hai nhưng cũng là một mà thôi; tất cả gói trọn trong một âm thanh đứt ruột của khúc bạc mệnh sau cùng. Đó cũng là Tiếng chim hót trong bụi mận gai, chỉ ngân lên một lần rồi chết, rồi hết, rồi tan biến giữa muôn trùng và phục sinh trong lòng người đọc”. Nguyễn Minh Hùng không đứng ngoài như một nhà lý luận đơn thuần chỉ để phân tích cấu trúc hay thi pháp, ông bước vào tác phẩm như một bạn tri âm với nhân vật để từ đó chạm được vào chiều sâu tư tưởng, thẩm mỹ mà nhà văn đang ẩn sau từng con chữ. Ông luôn tìm bóng dáng thấp thoáng đằng sau câu chữ, để hiểu, để trả lại phận người và phần số của văn chương.

Với Kẻ ẩn phía sau cung nữ, ông không đọc tác phẩm như một tiểu - thuyết - thơ, không chỉ đọc về tiểu sử bí ẩn của Nguyễn Gia Thiều, mà ông nhìn thấu nỗi buồn của một người đàn bà bị bỏ quên trong cấm cung thiên triều và lãnh cung văn chương; ông không dừng lại ở việc phân tích một nhân vật văn học mà minh giải hình tượng Nguyễn Gia Thiều đã thác gửi một thân phận kẻ sĩ trong hình hài cung nhân. Hãy đọc đoạn này: “Khúc ngâm vì thế có tần suất xuất hiện cao của chữ “buồn”, mỗi chữ một cung bậc, một trạng thái tâm lý: Mặt buồn trông trên cửa nghiêm lâu (đợi chờ); Cái buồn này ai dễ giết nhau (oán trách); Buồn vì nỗi nguyệt tà ai trọng/ Buồn vì điều hoa rụng ai nhìn (thương thân); Tình buồn cảnh lại vô duyên, Lại buồn đến cảnh con con (cô đơn); Lòng ngán ngẩm buồn tênh mọi nỗi (chán ngán); đỉnh điểm là: Buồn này mới gọi buồn sao? Trịnh Cốc, thi nhân nổi tiếng đời Đường, với bài thơ Hoài thượng biệt hữu nhân (Chia tay bạn trên sông Hoài), tả nỗi buồn đến mức giết người - Dương hoa sầu sát độ giang nhân (Hoa liễu nở làm khách qua sông buồn muốn chết). Xuân Diệu sau này, muốn tránh lối cũ, đã viết trong bài Chiều: Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn. Cả Trịnh Cốc và Xuân Diệu đều đề cập đến nguyên - nhân - buồn (bên là do hoa liễu, do cảnh, bên do chưa tìm ra nguyên nhân). Còn Nguyễn Gia Thiều nói mức - độ - buồn, muốn định lượng và định nghĩa nỗi buồn mà đành bất lực.

Buồn như vậy là buồn hết chỗ nói! Thơ sáng tạo về buồn đau mới thấm thía, thơ hồ hởi phấn khởi (như trong phần sủng ái) đọc lên nghe như nghe vậy thôi! Kẻ sĩ lúc hanh thông trông hồng hào, vui tươi và có khiếu hài hước nhưng chính cái lúc thất thế và biết cất lên khúc bi ca diễm tuyệt thì họ mới thực sự đẹp làm sao!...”.

Chính sự thấu cảm đã giúp văn phê bình của ông khác biệt. Người đọc cảm thấy mình đang chứng kiến một cuộc trò chuyện sâu sắc, tương giao, đồng cảnh ngộ giữa tác giả và nhân vật, giữa người viết và người đọc. Đó là điểm nhìn mà các nhà phê bình học thuật hiện nay có lẽ đang thiếu.

*Lối viết kết hợp giữa học thuật và nghệ thuật nhân bản1

Một điều đặc biệt trong phong cách của Nguyễn Minh Hùng là ông không dùng giọng điệu quá uyên bác, kiểu cách mà dung dị và có nét hài hước trí tuệ. Ông đối thoại, nhấn nhá, ví von tựa đang trong một lớp học, một hội thảo hay như đang từ tốn kể chuyện mình, chuyện người. Ông dẫn dắt người đọc bằng sự hài hòa giữa lý trí và cảm xúc. Ngay trong sự đớn đau, bức bách của người cung nữ, ông cũng không quên lồng vào chất  trào  lộng  nhẹ  nhàng:  “Cung nhân thì việc gì phải triết luận nhân sinh quá thể…” hay “Chưa cho vào chùa, chưa đày đi trông mộ, chưa chôn theo vua đã là ân huệ…”. Một phong cách vừa dễ tiếp cận vừa thấm đẫm tinh thần sư phạm, mà có lẽ chính nhờ những năm tháng đứng trên bục giảng và làm việc trong lĩnh vực giáo dục đã góp phần hình thành nên chất riêng này cho ông.

Ngòi bút của ông linh động trong việc kết hợp giữa phê bình học thuật và cảm hứng nghệ sĩ. Trang viết nhiều chỗ đi sâu vào học thuật, vận dụng rất đắc quan điểm triết học và mỹ học nhưng không ngụp lặn trong lý thuyết, mỗi bài viết về thơ như một áng văn chương chứ không khô khan như tiểu luận. Nguyễn Minh Hùng không chỉ viết với phân tích logic mà bằng một mỹ cảm tương  giao với từng chuyển động tâm hồn của người viết biết kiềm chế và trái tim thi sĩ. Ông đọc thơ để nghe được hơi thở cuộc đời phía sau câu chữ. Khi dẫn ra bài thơ Nếu tôi làm ra nước mắt của Đông Trình, ông viết: “Bài thơ viết đã hơn 30 năm nhưng vẫn khiến người đọc sững sờ vì sự uyên áo, tính triết luận và hình tượng thơ toàn bích với thể thơ 6 chữ cổ kính nhưng khó thấy ai có cách nghĩ tương tự. Ông mô tả “màu” của nước mắt rất lạ: Nước mắt có màu huyết dụ/ Điệp với lá cờ đang bay. Đâu chỉ là máu đỏ của nhiệt huyết, của chiến công, đó còn có cả thứ máu bầm đen oan khuất của điệp trùng thập loại chúng sinh!... Khổ thơ kết thật trong ngần: Cho những bảo tàng ngày sau/ Không chỉ trưng bày vũ khí/ Cho những đời người nối nhau/ Biết soi mình vào hạt lệ. Ngôn ngữ đối với nhà thơ là tấm gương  của thế giới, ở bài thơ này, nước mắt đã làm phận sự hai lần soi chiếu”. Ở Màu tím hoa sim của Hữu Loan, ông lý giải số phận thi phẩm: “Và có lẽ, từ đó, người đọc dường như bị đánh mất cơ hội được tiếp tục chiêm ngưỡng một hồn thơ hào sảng, bi tráng, mới mẻ, đằm thắm của Hữu Loan - một hồn thơ có lúc đạt đến sự tổng hòa tinh anh giữa Phạm Huy Thông của Thơ Mới, Hoàng Cầm và Quang Dũng trong những ngày đầu kháng chiến, một giọng thơ thô ráp mà tinh vi với kiểu bậc thang gân guốc mang dáng dấp một Maiakovski mà vẫn rất Hữu Loan. Lý do bài thơ không được phổ biến thật đơn giản: Đó là thơ buồn, thơ mất mát, bi thương, không có lợi cho cuộc kháng chiến. Khi đã xem sự lợi hại trên hết vì cuộc kháng chiến, vì lợi ích của giai cấp, của một cộng đồng, thì cái Đẹp không thể thoát khỏi số phận bi kịch”. Rồi từ đó, khẳng định giá trị của số phận bi kịch đó: “Nhưng con đường thơ từ một người đến muôn người lại có quy luật riêng của nó - thứ “quy luật phản quy luật”. Màu tím hoa sim thay vì chìm vào quên lãng thì lại được cất giữ trong lòng người sâu kín hơn, thay vì công khai trên đài báo, trên sách giáo khoa thì nó lại “rút vào bí mật” để rồi băng qua con đường vốn là đại lộ của thi ca đích thực - lối đi của kẻ mang thông điệp từ một trái tim đến một trái tim, tưởng nhỏ bé mỏng manh lại hóa ra vàng đá. Ở trường hợp này, không chỉ còn nguyên, mà bài thơ bỗng nhận thêm những giá trị, thêm những thử thách và thêm những che chở, thương yêu, bù đắp. Khi che khuất ánh sáng, hồng ngọc bỗng bất ngờ ánh chiếu một thứ màu sắc ảo huyền”... Hoặc ở bài lục bát Đò chiều của Tần Hoài Dạ Vũ, ông gọi đó là “trạng thái lỡ làng hưng phấn trong rượt đuổi của chữ vốn khốc liệt và phi lý”. Cách cảm thơ này vượt khỏi phê bình kỹ thuật để có thể tiệm cận bản thể nghệ thuật và nhân sinh.

*Từ kiến thức hệ thống đến chiều sâu văn hóa

Nghiên cứu về phong cách phê bình của Còn lại mảnh sao rơi, người đọc sẽ phát hiện khả năng kiến tạo liên văn bản liên ngành của tác giả. Với Cung oán ngâm khúc, ngay từ những dòng đầu tiên, Nguyễn Minh Hùng không chỉ phân tích tác phẩm như một văn bản văn học mà là một tấm gương đa diện soi chiếu văn hóa triều đại, tâm thức tầng lớp trí thức, thi pháp cổ điển và mối quan hệ giữa văn chương và đời sống. Ông sử dụng một hệ thống dẫn chiếu rộng và chính xác trên cơ sở đối sánh với các văn bản trung đại khác (Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Khuyến,…), đối chiếu cùng các nhân vật văn hóa - lịch sử như Nguyễn Trãi, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Nguyễn Du,…, xuất  phát  cơ  sở  triết  luận  Phật  - Lão - Nho và cả bình diện chính trị - xã hội trung đại và đương đại. Điều này chứng tỏ, Nguyễn Minh Hùng không chỉ đọc tác phẩm, mà còn đọc không gian thẩm mỹ của cả một thời đại; nhờ vậy người đọc thấy tác phẩm được đặt trong dòng chảy đời sống và văn hóa, chứ không bị đóng khung trong trong giai đoạn hay thời đại. Ví như khi trích dẫn Tuyên ngôn Nhóm Việt và Nhận đường của Nguyễn Đình Thi, ông tạo thành trường ngữ cảnh để dẫn dắt người đọc tiếp cận sâu hơn với động lực sáng tạo thi ca thời hậu chiến.

*Đồng hành cùng văn học quê hương

Có lẽ, một trong những điều đáng quý ở văn phê bình Nguyễn Minh Hùng chính là việc ông vẫn duy trì mối quan tâm đến các tác giả, tác phẩm của xứ Quảng giữa dòng chảy văn chương đất nước trong nghiên cứu của mình. Những bài viết trong tập sách cho thấy một tâm hồn vừa ngụ cư trong nghệ thuật vừa thuần hậu trong cảm thức văn chương; ở đó có tiếng nói của người yêu thơ, của người dạy văn và của một người con đất Quảng - nơi nuôi dưỡng và cho ông cái nếp của một người đọc, một người viết, một người sống  không ép buộc với văn chương. Khi ông viết về thơ Đà Nẵng, về các tác giả Đông Trình, Tần Hoài Dạ Vũ, Đynh  Trầm Ca, Nguyễn Nho Nhượn, Hà Nguyên Dũng, Nguyễn Hoàng Thọ, Nguyễn Nhã Tiên, Nguyễn Kim Huy, Trương Vũ Thiên An, Nguyễn Chiến,… ta vẫn nhận ra một sợi dây gắn bó âm thầm giữa người viết với tác giả và mảnh đất miền Trung. Đó không phải là địa lý mà là địa tầng ký ức, nơi mỗi bài thơ, áng văn là một lát cắt văn hóa, một chứng tích nhân sinh.

Đọc tác phẩm của Nguyễn Minh Hùng, bạn đọc tinh ý còn nhận thấy không chỉ cách nghĩ mà cách nói của ông cũng rất đời, rất gần, có khí chất Quảng Nam trong giọng điệu, có nỗi quê nhà trong tâm tưởng; trang viết ẩn hiện tình cảm quê hương sâu nặng (ngôn ngữ thơ của ông càng thấy rõ điều đó). Trong nhiều bài phê bình, Nguyễn Minh Hùng nói về thơ như đưa nỗi nhớ người đọc về một miền quê, một chốn quê, một hồn quê bảng lảng trên mặt chữ. Tập thơ, bài thơ, đoạn thơ trích dẫn lần lượt xuất hiện trong các bài phê bình của ông như một minh chứng cho sự “đón đợi”, “nhặt tìm” những “mảnh sao rơi” của văn học quê nhà vốn dễ bị khuất lấp trong bầu trời văn học đất nước. Thay vì ca tụng một chiều, bạn đọc sẽ bắt gặp tác giả để từng câu thơ, từng nhịp điệu chuyển biến tự nói lên sức sống của văn chương.

* Độ mở của trang viết

Ở phần II của tập sách, những người viết khác chia sẻ cảm nghĩ về tác phẩm của Nguyễn Minh Hùng ở góc độ người thầy, đồng nghiệp và bạn viết khiến Còn lại mảnh sao rơi trở nên gần gũi hơn, tâm tình hơn. Phê bình, suy cho cùng, không phải để khẳng định một “cái tôi quyền uy” mà để kéo gần khoảng cách giữa người viết và người đọc, giữa người cảm thấy và người cảm thấu... Chính điều ấy làm nên “độ mở” của tập sách này mà không đóng lại trong khuôn mẫu học thuật, để mời gọi người đọc bước vào đối thoại, để ghép lại những mảnh cảm xúc và tri thức thành bức tranh đa diện của tiếp nhận vẻ đẹp của sáng tạo thi ca.

Còn lại mảnh sao  rơi  không  chỉ là một tập sách phê bình. Đọc văn của tác giả tập sách, nhiều đoạn có cảm giác được đọc “thơ của tư duy”, trong đó, có sự rung động, suy tư và những phát hiện bất ngờ về những điều tưởng như đã quen lâu lắm. Còn lại mảnh sao rơi là tìm đến và trở về với thơ, với cái đẹp, với miền quê tâm tưởng và cả đất Quảng dấu yêu, một không - thời - gian Nguyễn Minh Hùng từng sống, chiêm nghiệm và lặng lẽ nhặt từng “mảnh sao rơi” lóng lánh từ bầu trời văn học rồi đặt nhẹ vào tay người đọc còn biết mơ mộng của hôm nay.

N.Q.H

Chú thích: 

1 Nghệ thuật nhân bản (humanism in art): khuynh hướng nghệ thuật đề cao và tôn trọng giá trị con người, tập trung vào việc miêu tả con người một cách chân thực và toàn diện, với những phẩm chất tốt đẹp và những khía cạnh đời thường của họ