Hơi thở miền ngược trong hội họa xứ Quảng

07.10.2025
Tiểu Yến
Hình ảnh thiếu nữ với nụ cười rạng rỡ trong vũ điệu tâng tung da dá, phiên chợ vùng cao hay vẻ đẹp mái gươl xuất hiện qua từng nét cọ, gam màu luôn mang đến cho người xem cảm giác vừa thân quen, vừa lạ lẫm.

Hơi thở miền ngược trong hội họa xứ Quảng

Tác phẩm bút sắc "Dưới bóng rừng" của họa sĩ Nguyễn Thượng Hỷ. Ảnh: T.Y

Lưu giữ ký ức vùng cao

Lần nào cũng vậy, cuộc cà phê giữa tôi và họa sĩ Nguyễn Thượng Hỷ đều xoay quanh chủ đề tranh. Ông thường bắt đầu bằng một kỷ niệm và “dẫn” người nghe dạo quanh các bản làng miền tây xứ Quảng qua hình ảnh những thiếu nữ Cơ Tu trong ngày cưới.

Điệu tâng tung da dá giữa đêm hội bập bùng ánh lửa. Già làng bên ché rượu cần. Lũ trẻ chạy tung tăng trong sắc váy thổ cẩm... Cảnh vật, âm thanh, màu sắc, vẻ đẹp kiến trúc hay nụ cười của đồng bào vùng cao làm nên giọng điệu riêng biệt trong thế giới hội họa của Nguyễn Thượng Hỷ.

“Tôi sợ nhất là sự hời hợt bởi núi rừng và con người ở đó xứng đáng được vẽ bằng sự trân trọng tuyệt đối”, Nguyễn Thượng Hỷ nói.

Cái chất đi và vẽ khiến tranh Nguyễn Thượng Hỷ giống như cuốn nhật ký ghi lại vẻ đẹp vùng cao. Ở mỗi chất liệu sơn dầu, màu nước, lụa hay ký họa, ông đều tìm thấy cách biểu đạt riêng.

Nếu sơn dầu cho phép ông khắc họa sự dày dặn, hùng vĩ của núi rừng thì màu nước lại gợi nên những khoảnh khắc mơ màng của buổi sớm bảng lảng sương. Với tranh lụa, các thiếu nữ Cơ Tu hiện lên mềm mại, uyển chuyển như đang bước ra từ điệu múa, trong khi ký họa nhanh gọn, như nốt nhạc tức thì ghi lại từ nhịp sống nơi bản làng.

Bên cạnh dòng suy tưởng về kiến trúc Champa, hơn 50 tác phẩm về đời sống, văn hóa người Cơ Tu trở thành niềm tự hào của Nguyễn Thượng Hỷ.

Đơn cử, khi nói về tác phẩm “Dưới bóng rừng”, kích thước 68x80cm được vẽ bằng bút sắt năm 2025, ông diễn giải rằng mình đã đứng thật lâu ở lễ hội mừng cơm mới của đồng bào Cơ Tu để nhận ra rằng, với họ, lễ hội là để tri ân đất trời, rừng núi cho mưa thuận gió hòa, cho bản làng no ấm.

Bởi vậy, khi đưa hình ảnh cây nêu, con trâu hiến tế, mái gươl, bóng cây cổ thụ và dân làng trong sắc áo thổ cẩm vào tranh, là ông muốn giữ lại cái hào khí linh thiêng, để người xem hiểu được rằng mọi chi tiết đều gắn với tín ngưỡng và niềm tin của đồng bào.

Nguyễn Thượng Hỷ nói, ông không tham vọng dựng lại toàn bộ không gian văn hóa miền ngược, mà chỉ mong giữ lấy một phần ký ức, tinh thần của đồng bào Cơ Tu để trao truyền cho thế hệ sau.


Tác phẩm khắc gỗ "Người Việt Nam" của họa sĩ Nguyễn Tường Vinh lấy ý tưởng từ 54 dân tộc anh em trên khắp dải đất Việt Nam. Ảnh: T.Y

Giữ lửa với khắc gỗ và lụa

 

Trong số ít họa sĩ thành danh tại Đà Nẵng, Nguyễn Tường Vinh là cái tên đặc biệt. Ông chọn khắc gỗ và tranh lụa khổ lớn để thử sức rồi bị cuốn vào đó như định mệnh sáng tạo.

Ở nhiều tác phẩm, giới mộ điệu bắt gặp dấu vết miền ngược với những gùi, cồng chiêng, mái gươl hay bóng người dân cần mẫn trên nương rẫy... Nhưng thay vì miêu tả thuần túy, ông thường cố tình tiết chế, nhường khoảng trống cho người xem lấp đầy bằng sự tưởng tượng.

Ở một số bản khắc, mái gươl hiện ra không trọn vẹn, chỉ còn lại vài nét vát nghiêng của nóc nhà trên nền trời; hay hình ảnh cô gái Cơ Tu trong bộ váy thổ cẩm chỉ được gợi bằng mảng sáng tối, nhưng chính sự tối giản ấy lại tạo nên độ ám gợi, khiến tác phẩm có sức vang dài lâu.

Với các tác phẩm Vũ điệu mừng xuân (khắc gỗ, 1993), Lễ hội Cơ Tu (lụa, 1995), Bản sắc miền Trung và Tây Nguyên (sơn mài, 2009)..., Nguyễn Tường Vinh cho thấy sự bền bỉ trong hành trình khai thác đề tài vùng đồng bào dân tộc. Nhiều tác phẩm của ông vừa mang giá trị tạo hình, vừa có tính sử liệu.

Trong đó, “Vũ điệu mừng xuân” với sắc thái lễ hội tưng bừng của đồng bào Cơ Tu đã góp phần ghi dấu giai đoạn sáng tác sôi nổi đầu thập niên 1990. “Lễ hội Cơ Tu” trên nền lụa lại mang đến cảm giác gần gũi khi gam màu được xử lý tinh tế, gợi ra nhịp điệu quyến rũ của tranh.

Người xem dễ nhận ra sự dày công nghiên cứu và kiên nhẫn gần như khổ hạnh của họa sĩ Nguyễn Tường Vinh. Bởi lẽ, khắc gỗ không chỉ đòi hỏi sức lực mà còn yêu cầu nghệ sĩ phải tính toán từng nhát khắc, từng đường ăn mực trên mặt gỗ. Một sai sót nhỏ cũng đủ khiến tác phẩm phải bỏ đi.

Nói về tranh lụa khổ lớn, ông xem đây là thử nghiệm “giữ lửa” theo một cách khác. Vì nếu khắc gỗ nghiêng về sự mộc mạc, khúc chiết thì lụa cho phép ông phóng khoáng, bay bổng.

Trong “Lễ hội Cơ Tu”, dải lụa dài giúp sắc màu thổ cẩm, tiếng cồng chiêng và điệu múa tâng tung da dá có thể lan tỏa hết biên độ. Người xem khi đứng trước bức lụa ấy thường cảm nhận như đang dự phần vào một đêm hội, nơi ánh lửa bập bùng và gương mặt người dân ánh lên niềm hân hoan.

Giữa các xu hướng hội họa hiện đại, vẫn có không ít họa sĩ xứ Quảng dành tình yêu cho mái nhà sàn hay những họa tiết hình học tượng trưng thần linh, chim muông, núi rừng, ánh mặt trời rực rỡ trên nền văn hóa các dân tộc miền núi.

Có thể kể đến Nguyễn Dũng với những mảng màu khỏe khoắn, nhấn vào hình khối cây nêu giữa đại ngàn, hay Giang Nguyên Thái với hàng trăm ký họa ghi lại chân dung, đời sống đồng bào vùng cao trong những chuyến điền dã dọc dãy Trường Sơn. Chưa kể, Đinh Quang Hải (Hải Tre) trong các sáng tác gần đây cũng chọn miền ngược làm điểm nhấn, với góc nhìn của người trẻ phóng khoáng và bay bổng hơn.

Cùng với tình yêu ấy, những sắc màu từ miền ngược vẫn âm thầm giữ cho hội họa xứ Quảng màu sắc riêng, bền bỉ cùng năm tháng.

(baodanang.vn)