Chuyện người lương dân, một góc nhìn

28.08.2023
Hoàng Dục

Chuyện người lương dân,  một góc nhìn

Học giả Phan Châu Trinh

Nhắc đến ngòi bút của Phan Châu Trinh, người ta nghĩ đến những tác phẩm chính luận sắc sảo, những bài thơ trong Santé thi tập, Tây Hồ thi tập,… Làm sao có thể quên những vần thơ dậy sóng: Một ngòi lông vừa trống vừa chiêng, cửa dân chủ khêu đèn thêm rạng chói (Phan Bội Châu - Văn tế Phan Châu Trinh). Nhưng mấy ai nhớ đến một tác phẩm văn xuôi tự sự tưởng chừng lặng lẽ nằm dưới lớp váng thời gian. Tác phẩm ấy là truyện ngắn Chuyện người lương dân của ông.

Chuyện người lương dân nguyên văn chữ Hán được Phan Châu Trinh sáng tác năm 1904, Huỳnh Thúc Kháng dịch ra tiếng Việt vào năm 1933. Truyện kể chuyện Điền Xá ông được vua ban cho bốn chữ sơn son thếp vàng “Sắc tứ lương dân”. Lúc trẻ, Điền Xá không làm được một nghề gì cả. Vào năm có trộm cướp, ông bị bắt đi theo bọn cướp nhưng không ăn cắp của ai vật gì nên được vua ban cho bốn chữ trên. Ông ta đem tấm bảng sơn son thếp vàng treo trước ngõ, ai đi qua cũng trầm trồ khen ngợi. Một người khách thấy lạ tìm đến hỏi tại sao có tấm bảng ấy. Sau khi nghe kể, người khách tỏ ra khinh bỉ, bảo với Điền Xá ông bỏ tiền ra giúp cho dân nghèo, nhưng ông ta lại nói về chuyện lo cho các con có tài sản để sinh sống. Khách giận bỏ đi, từ đó chẳng ai nhắc đến chuyện Điền Xá ông nữa.

“Chuyện người lương dân” khi đưa vào Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam chọn lọc, người biên soạn đã giới thiệu: Phan Châu Trinh sáng tác truyện ngắn này nhằm châm biếm sự thay đổi nội các ở triều Thành Thái, mà mục đích của người dịch (Huỳnh Thúc Kháng) là châm biếm sự thay đổi nội các ở triều Bảo Đại.

Và Huỳnh Thúc Kháng sau khi dịch đã viết lời bình: Biết chữ mà không hiểu nghĩa như lão này, thiếu gì! Cuối bài, dịch giả thêm lời phụ phê bình: Bài này bản ý tác giả vẽ ra một cái triều đại mà xã hội lộn xộn, nhân vật hèn hạ. Cùng đi ăn cướp mà không lấy của người, cái đó không phải là đức tính đáng khen hay là đáng ban thưởng. Người ở trên đời cốt làm sao cho có công nghiệp giúp ích cho nhân quần xã hội kia. Ở một cái đời mà dư luận và quốc điển biểu dương cho một người đi ăn cướp không lấy tiền thì cái thời đại và xã hội ấy nội dung thế nào, không nói cũng rõ. Tuy vậy anh khách kia cũng khắc trách quá, nếu như anh ta thấy hạng người “quốc sự mang đãy” ngày nay thì hơi đâu mà mắng; cốt chửi bọn lo việc nước mà chỉ biết “nặng túi, dày cặp” không thiếu gì trong xã hội đương thời.

Qua lời giới thiệu của người biên soạn tuyển tập truyện ngắn và lời bình của dịch giả Huỳnh Thúc Kháng, người đọc có thể nắm bắt được nội dung tư tưởng của truyện, cảm hứng tư tưởng nghệ thuật của Phan Châu Trinh. Truyện có ý nghĩa phê phán “xã hội lộn xộn”, đạo lý đảo điên và vạch trần bản chất hèn hạ, bù nhìn của vua quan đương thời. Với nội dung và cảm hứng phê phán ấy, truyện ra đời không nằm ngoài mục đích chính trị của chí sĩ họ Phan đất Quảng. Điều đó cũng chẳng có gì đáng bàn, bởi với Phan Châu Trinh, cuộc đời và văn chương có sự thống nhất cao độ. Toàn bộ sáng tác và hành trạng của người chiến sĩ cách mạng dân chủ này đều hướng đến nhân dân và dân tộc với tư tưởng: Khai dân trí, Chấn dân khí và Hậu dân sinh. Nhà văn - chí sĩ khao khát cháy lòng: Trước hết phải mở mang trí tuệ, nhận thức và hiểu biết cho dân như dạy chữ, khoa học thực nghiệm, bài trừ hủ tục,…; kế đó là thức tỉnh tinh thần tự cường, nhuệ khí đấu tranh trong đồng bào,… và cuối cùng mới nâng cao mức sống của dân như lập xưởng sản xuất, lập hội buôn,… Như vậy, về phương diện nội dung, truyện ngắn hội tụ tình cảm yêu nước thương dân mang màu sắc dân chủ của Phan Châu Trinh. Đây là một tư tưởng tiến bộ không chỉ ở thời điểm truyện ngắn ra đời mà còn đối với mai sau. Tư tưởng của tác giả hội tụ ở nhân vật người khách đúng như ý kiến của B. Brecht (Đức): Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con người sống mà là những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả. Nói như ai đó, tư tưởng nghệ thuật này như vì sao trên trời, càng nhìn càng sáng tỏ. Nếu đem thả vào dòng chảy thời gian, truyện vẫn không bị cuốn trôi, không bị nhấn chìm; ngược lại luôn nổi lên, sừng sững khẳng định giá trị tư tưởng dân chủ mới mẻ và hiện đại này.

Xét về bình diện hình thức, Chuyện người lương dân chưa hẳn hoàn toàn mang màu sắc hiện đại, chỉ đâu đó có sự giao thoa, có sự bàng bạc của cái mới trong cái cũ. Cốt truyện khá giản dị, tình tiết không nhiều. Câu chuyện được kể theo trật tự thời gian. Nhân vật cũng chỉ vỏn vẹn có hai người, đó là Điền Xá ông và người khách. Tất nhiên, đằng sau hai nhân vật chính vẫn có nhân vật đám đông. Họ là những người trong gia đình Điền Xá, bọn cướp,… Ngay thời gian, không gian nghệ thuật, thậm chí tên nhân vật vẫn còn phiếm chỉ. Không gian thì tỉnh X. phủ X. làng X. Nhân vật chỉ là người khách. Đây là một trong những đặc điểm thi pháp của truyện cổ dân gian và của truyện ngắn trong văn học trung đại Việt Nam. Về nghệ thuật khắc họa nhân vật, nhân vật vẫn là nhân vật hành động nhưng đã có những nét diễn biến tâm lý. Nhân vật Điền Xá được tác giả tập trung khắc họa bằng chuỗi việc làm: Thuở nhỏ học chữ nho, nhưng học có mười năm mà không hiểu nghĩa được một chữ gì, cha mẹ giận bắt về đi cày. Tánh lại ưa phong lưu mà không muốn chơi với bọn tay lấm chân bùn kia, nên bỏ nghề nông làm sang nghề thương, có bao nhiêu vốn làm gì lỗ nấy. Sau cũng tưởng nghề thợ dễ ăn, tôi học nghề thợ mộc. Nhưng nó cũng rủi làm sao! Hễ đẽo cây gỗ nào thì hư cây gỗ ấy, cứ bị bác thợ cả mắng chửi mãi. Vì thế nên nay vẫn không có nghề gì. Qua nhưng hành động này, tác giả phơi lộ tính cách, bản chất của nhân vật. Điền Xá là một con người u mê, bất tài, nhưng ích kỷ, thích hưởng thụ, lại thêm nhận thức nông cạn và hẹp hòi: Nhà tôi con đông, đương cùng bà hắn lo cho chúng nó mỗi đứa một ít tư bản cho kha khá mà tìm chưa ra cách. Tôi có phải người ngu dại, không tính việc của con cái sau này đâu. Dưới ngòi bút tự sự của Phan Châu Trinh, nhân vật Điền Xá điển hình cho một tầng lớp người dân sống mờ nhạt trong xã hội và giữa cuộc đời.  

Tất nhiên, để đánh giá hình thức nghệ thuật của tác phẩm này không hề đơn giản chút nào, bởi đây là tác phẩm văn xuôi tự sự duy nhất của Phan Châu Trinh. Và có lẽ cũng bởi đây là một truyện ngắn khơi dòng cho thể loại văn học giàu tính hiện thực, không nhuốm màu hư ảo trong văn chương nước nhà. Hơn nữa, muốn nhìn nhận đúng giá trị của tác phẩm này, nên chú ý thời điểm sáng tác của nó. Truyện ra đời năm 1904, sau Phan Châu Trinh đỗ Tiến sĩ 3 năm, trước ông từ quan 1 năm. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, truyện rất dễ chuyên chở tư tưởng nho gia, nhuốm màu sắc trung quân và khuôn mình trong cái khung đạo đức chật chội, không còn phù hợp với thời mới nữa. Nhưng không, về nội dung tư tưởng, truyện mang vẻ đẹp hiện đại. Vẻ đẹp hiện đại trước hết là ở tư tưởng khẳng định lý tưởng thẩm mĩ, lý tưởng xả thân vì dân tộc, nhân dân sâu sắc. Tư tưởng này thể hiện qua lời khuyên Điền Xá của người khách: Sao không xuất gia tư ra giúp cho dân nghèo, khiến bọn vô lại trong làng xóm có nghề làm ăn, để trừ tiệt cái nghề trộm cướp kia, như thế không những là cái công việc đời già bổ cái hư của lúc trẻ, mà cũng là khiến cho người cùng làng khỏi có lời nhạo báng nầy nọ?. Tính cộng đồng là một phẩm chất đẹp của con người, của đạo lý làm người. Tính cộng đồng khẳng định vẻ đẹp của con người trong mối quan hệ tình nghĩa giữa người và người, giữa cá nhân và xã hội. Sau đó là triết lý nhân sinh hiện đại của phương Tây. Ông trong nghề tứ dân, không được một nghề gì, trong gia đình cũng là người thừa, không coi giúp được việc gì. Nhân vật Điền Xá không làm được nghề nào trong bốn nghề: Sĩ, nông, công và thương. Đã thế lão còn là một người thừa trong gia đình. Trước đây, khi cha mẹ bị nhà quyền hào kia bức hiếp nên dời đi nơi khác, Điền Xá như một chiếc bóng câm nín và hèn nhát. Đối với anh em, lão như là một nhân vật vô can, vô nhiễm: Anh em vẫn đông, song vì đói, người đi một nơi, kẻ đi một ngả. Phan Châu Trinh đã đặt vào miệng nhân vật giọng kể dửng dưng, khô queo, khẳng định sự thật nội tâm của nhân vật. Điền Xá vô tình vô nghĩa với đấng sinh thành, với những ruột rà thì làm sao tạo lập mối quan hệ yêu thương và hy sinh trong cộng đồng. Vì thế, người đọc hiểu tại sao lão từ chối lời khuyên của người khách. Và hẳn người đọc cũng đồng tình với tác giả, Điền Xá là một người thừa trong gia đình. Không những thế, ở phương diện khái quát hóa nghệ thuật, phương diện tính đại diện của nhân vật, Điền Xá xứng đáng gọi tên là người thừa thậm chí đời thừa như chữ của Nam Cao nữa.

Về hình thức, yếu tố làm nên tính hiện đại của Chuyện người lương dân là nghệ thuật xây dựng tình huống truyện. Đấy là tình huống nghịch lý, Điền Xá đi ăn cướp mà không cướp nên được vua ban: “Sắc tứ lương dân”. Tình huống này đã nẩy sinh tình huống nhận thức của nhân vật người khách. Nhân vật người khách nhận thức về lớp vỏ hào nhoáng của xã hội phong kiến đang bọc che những sự mục ruỗng, trống rỗng, cũ kỹ, nghèo nàn; khác nào như cái bảng sơn son đỏ chói có 4 chữ thếp vàng to tướng kia đang đóng vai trò cái bình phong che đậy vẻ già cỗi của Điền Xá, cái cũ kĩ của bàn ghế, sự rách nát của mấy tấm tranh treo trên tường trong nhà người được gọi là “lương dân”- người dân hiền lành, tốt bụng kia. Nhân vật người khách ấy còn nhận thức một lẽ sâu xa khác. Không thể để nhân dân thụ động, không làm được một việc gì ra hồn, không thể sống chỉ biết vun đắp cho gia đình và bản thân, không thể chỉ biết hưởng thụ. Sống không thể vô cảm với những người xung quanh, chỉ biết chạy theo cái danh hảo huyền mà quên đi đạo lý làm người. Sống là phải sống có ý nghĩa với chính mình với mọi người xung quanh.

Chi tiết nghệ thuật tạo nên tình huống truyện nêu trên: Trước ngõ vào nhà có treo một tấm bảng sơn son đỏ chói, trên có 4 chữ thếp vàng to tướng và bóng nhoáng: Sắc tứ lương dân, kẻ qua người lại, ai cũng trầm trồ khen ngợi, đã soi tỏ tâm hồn và tính cách của Điền Xá. Điền Xá được tiếng là người dân hiền nhưng lại là một con người vô vị, vô lại và vô tích sự. Lão sống nhòa nhợt giữa đời, chẳng có chút giá trị nào nhưng rất háo danh. Nội tâm lão là một thế giới đầy mâu thuẫn, mâu thuẫn giữa thực và ảo, giữa tốt và xấu, giữa dối trá và sự thật,… Hình ảnh tấm bảng “Sắc tứ lương dân” khác gì tấm bằng “Tiết hạnh khả phong” có tính chất giả hình, trào tiếu của bà Phó Đoan - người phụ nữ giữ trinh tiết với hai đời chồng trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng sau này. Khi bàn về nghệ thuật, đại văn hào Nga L. Tônxtôi đã khẳng định: Mục đích chính của nghệ thuật... là nói lên sự thật về tâm hồn con người, nói lên những điều bí ẩn không thể diễn tả bằng ngôn ngữ thông thường được. Ở bình diện này, ngòi bút của Phan Châu Trinh phần nào đã làm được điều đó. Tác giả không chỉ cho thấy những mảng sáng tối trong tâm hồn Điền Xá mà còn giúp người đọc khái niệm lại từ “lương”. Hiền lành không thể cặp đôi với “dại” hay “ngu” hoặc “hèn”. Hiền phải song hành với “thiện”, với “dũng”, với “trí”, với “phản biện”,… Khái niệm lại để hiểu thêm tiêu đề của truyện. “Chuyện người lương dân” nghe chừng tác giả chỉ khách quan kể lại câu chuyện đời của một người dân hiền. Cái cảm giác giọng kể trung tính hóa ra chỉ xuất hiện thoáng chốc rồi nhường chỗ cho nhưng lớp cảm giác khác đan xen. Đó là cảm giác giọng kể giễu nhại hay giọng kể phê phán, giọng kể bực dọc… nhưng giọng chủ đạo vẫn là yêu thương, khao khát thay đổi “cái nhìn” về mình, về xã hội cho người dân lương thiện. Tiêu đề nhiều giọng điệu đã góp phần tô đậm hơn lối sống và bản chất của nhân vật.

Cũng cần nói thêm về nghệ thuật trần thuật của Phan Châu Trinh. Đọc truyện, người đọc nhận ra cách kể kiệm lời của nhà văn. Tác giả không đem sự hiểu hết, biết hết mà kể chuyện, biến nhân vật thành chiếc bóng của mình. Nhà văn biết lùi lại, biết náu mình sau nhân vật, biết đẩy nhân vật lên phía trước để họ tự kể, tự biểu hiện, tự “lộn trái” nội tâm của họ bằng những chi tiết chọn lọc, bằng cấu trúc đối thoại, bằng ngôn ngữ nhân vật ngắn gọn. Ở phương thức nghệ thuật này, ngòi bút của Phan Châu Trinh đã chệch ra ngoài văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam.   

 Nghệ thuật luôn giàu sức gợi bởi tính ước lệ và tính ẩn dụ nghệ thuật của hình ảnh mà nhà văn xây dựng. Chính vì vậy, hình ảnh bức “Sắc tứ lương dân” sơn son thếp vàng kia cũng mở ra nhiều trường liên tưởng. Một trong những liên tưởng của hình ảnh ấy là gợi ra giá trị của tác phẩm văn học. Nếu nhìn từ cấp độ sáng tạo văn chương, thì cái bảng treo kia cũng chỉ là một thứ văn chương sáo rỗng hút hồn biết bao người qua lại nên ai cũng trầm trồ ngợi khen. Nhưng thực ra, thứ văn chương ấy, ngôn từ ấy chỉ là một thứ chủ nghĩa hình thức, một thứ mề - đay gắn vào lòng háo danh, một thứ bình phong che đậy thói đạo đức giả của con người.

Giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật có màu sắc hiện đại của Chuyện người lương dân là ở đấy. Còn nếu xét về bình diện lịch sử thể loại, quá trình hiện đại truyện ngắn Việt Nam thì Chuyện người lương dân cũng có vị trí và vai trò nhất định.

Khi bàn về mốc hiện đại hóa về phương diện thể loại truyện ngắn trong văn học Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu đã đồng tình lấy năm 1900 làm mốc. Mốc 1900 là hợp lý, bởi văn học Việt Nam đi vào quỹ đạo hiện đại hóa là xuất phát từ bản thân đời sống văn học. Từ những chuyển động tự thân và từ góc nhìn văn học bằng thế kỉ: Thế kỉ XX, thì văn học Việt Nam chuyển động và vận động theo một hướng mới, một quá trình mới. Quá trình này không tách rời diễn trình biến đổi của lịch sử trong một tình thế tất yếu khách quan. Đó là yêu cầu canh tân đất nước nói riêng và xu hướng phát triển theo hướng hiện đại của khu vực châu Á nói chung.

Công đầu cho sự hình thành truyện ngắn Việt Nam giai đoạn này là Phạm Duy Tốn (1883-1924) với tác phẩm “Sống chết mặc bay” đăng trên Nam Phong tạp chí tháng 12 năm 1918 và Nguyễn Bá Học (1857-1921) với “Câu chuyện gia đình” xuất hiện trên Nam Phong tạp chí số 10, tháng 10 năm 1917. Tuy vậy, những truyện ngắn của hai nhà văn trên vẫn chưa thật sự “li dị” với truyện ngắn trong văn học trung đại. Vào những năm 20 của thế kỉ XX, Nguyễn Ái Quốc đã viết những truyện ngắn xuất sắc bằng tiếng Pháp có tính chất hiện đại với một phong cách nghệ thuật phong phú và đa dạng đã góp phần làm cho cái mốc hiện đại hóa thể loại truyện ngắn thêm vững chắc và có sức thuyết phục.

Nhìn vào những tác giả cắm mốc hiện đại hóa thể loại nêu trên, không thấy Phan Châu Trinh. Nên chăng cần có sự bổ khuyết để có cái nhìn lịch sử thể loại khoa học và đầy đặn hơn. Nếu lấy năm 1900 cắm mốc cho tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nói chung và thể loại truyện ngắn nói riêng thì “Chuyện người lương dân” sáng tác năm 1904, có lẽ đã hòa vào sự chuyển động và vận động của thể loại này theo hướng mới, quá trình mới. Điều đó thể hiện qua nội dung tư tưởng mới, một số yếu tố nghệ thuật mới, dù còn lưu giữ những yếu tố hình thức của thi pháp truyện ngắn trung đại. Cái mới phát triển từ cái cũ, âu đấy cũng là quy luật phát triển tiệm tiến của văn học nói chung và của từng thể loại nói riêng. Hay nói theo nhà lý luận và nghiên cứu phê bình văn học Nga M. Bakhtin: Thể loại đang sống trong hiện tại nhưng bao giờ cũng nhớ tới quá khứ của mình, nguồn gốc của mình. Thể loại là kí ức sáng tạo của nhân loại trong tiến trình văn học (Những vấn đề thi pháp Đôtxtôiepxki).

Tóm lại, Chuyện người lương dân vẫn là một truyện ngắn có giá trị, đáng trân trọng trong nền văn học Việt Nam nói chung và thể loại truyện ngắn nói riêng. Truyện đã thực sự cắm mốc tư tưởng duy tân (duy tân hiểu theo nghĩa rộng) trong bước đường hoạt động cách mạng của Phan Châu Trinh. Đọc truyện, người đọc càng thấm thía ý nghĩa của hai câu thơ trong “Chí thành thông thánh” của người con ưu tú của Đất Quảng này:  

Vạn gia nô lệ cường quyền hạ,

Bát cổ văn chương thụy mộng trung.

(Tám vế văn chương mê mắt ngủ,

Trăm quan tôi tớ uốn lưng cong)1

Phải chăng, một trong những lớp nghĩa thơ là: Phan Châu Trinh khao khát văn chương thật sự “tỉnh thức”. Từ đó, văn chương phát huy chức năng nghệ thuật, dóng lên tiếng chuông xua tan tâm thế “mê mắt ngủ” của người dân, giúp họ nhận thức rồi vững bước trên con đường duy tân đất nước.

H.D