Nhà thơ LƯU TRÙNG DƯƠNG (1930-2014)
Nhà thơ Lưu Trùng Dương tên thật là Lưu Quang Luỹ, sinh ngày 05 tháng 5 năm 1930. Quê quán tại quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
Ông là em của nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận và chú ruột nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ. Ông còn có các bút danh Trần Hướng Dương, Trần Thế Sự, Lưu Ly… Ông tham gia cách mạng từ rất sớm, vào bộ đội đi chiến đấu sát cánh với nhân dân khu V và Tây Nguyên trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Đà Nẵng, nguyên Phó chủ tịch thường trực, Bí thư Đảng Đoàn Hội Văn nghệ Quảng Nam – Đà Nẵng, Tổng thư ký Hội Văn nghệ TP Đà Nẵng. Ông qua đời ở tuổi 84 tại nhà riêng tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 9/10/2014.
Đến nay ông đã có nhiều tác phẩm, trong đó có 19 tập thơ, 15 tác phẩm văn xuôi, 9 kịch bản sân khấu – điện ảnh. Ông đã nhận được 11 giải thưởng văn học, 5 huy chương các loại.
1.Tác phẩm đã xuất bản:
- Thơ Tập thơ của người lính, 1949
- Trường ca Trận Kông-plông, 1951
- Truyện thơ Chiến sĩ dân công Nguyễn Thị Cam, 1953
- Thơ Những người đáng yêu nhất, 1960
- Truyện thơ Trong nhà tù lớn, 1963
- Thơ Tình nguyện, 1963
- Trường ca Sóng cát, 1965
- Trường ca Những người đẹp nhất, 1970
- Truyện thơ Như hòn Non Nước, 1971
- Truyện thơ Người con gái Rạch Gầm, 1972
- Thơ Nỗi nhớ màu xanh, 1975
- Thơ Trên đỉnh Núi Thành ta hát, 1983
- Trường ca Bản trường ca bốn mươi năm, 1985
- Trường ca Chặng đường mới, 1985
- Thơ Bài thơ tình về chim hải âu, 1988
- Thơ Thơ tặng anh bộ đội Cụ Hồ, 1990, 1994, 2003
- Thơ Bài ca người Đà Nẵng, 2000
- Tuyển tập Lưu Trùng Dương, 2001
- Thơ với tuổi thơ, 2003
- Ghi chép Kể chuyện bộ đội Liên khu 5 (cùng viết với Nguyên Ngọc), 1954
- Truyện kể Phụ nữ miền Nam bất khuất, 1964
- Ký sự Kể chuyện giới tuyến, 1960
- Bút ký Dẫn đầu cả trăm người cùng xốc tới, 1971
- Truyện cổ Anh em sinh ba, 1975
- Truyện ngắn Rừng cây kỳ diệu, 1980
- Tiểu thuyết Họ đi tìm thiên đường, 1988, 2003
- Tiểu thuyết Con đường sắt vô hình, 2001
- Truyện vừa Bà chánh án mồ côi, 2003
- Truyện vừa Huyền thoại ở Đăk Xing, 2003
- Tiểu thuyết Chết rồi lại sống, 2003
- Ký sự Sống vì lý tưởng, 2003
- Truyện, ký, tùy bút Lưu Trùng Dương, 2006
- Tiểu thuyết Người báo thù đáng yêu, 2008
- Tiểu tuyết Những linh hồn sống và chất độc da cam
- Kịch nói Người mất màu da, 1951
- Kịch dân ca Muối của Bok Hồ, 1963
- Kịch thơ Bài ca người chiến thắng, 1966
- Kịch thơ Những bông hoa thắm đỏ mùa xuân, 1967
- Kịch thơ Dưới chân cột cờ thành Huế, 1968
- Kịch thơ Trên bờ sông Sài Gòn, 1969
-Phim tài liệu Vài hình ảnh lực lượng vũ trang nhân dân Lào, 1966
-Phim hoạt hình Chuyện hai người học trò (Đã in, chưa làm phim), 1980
-Phim truyện Rừng dương vô tận (Đã in, chưa làm phim), 1981
Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật thành phố mừng thọ nhà thơ Lưu Trung Dương tròn 80 tuổi (2010)
2. Giải thưởng, tặng thưởng văn học:
- Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng
- Năm Huân chương (trong đó: Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng I; Huân chương Chiến thắng hạng 2 và 3, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng 1, 2, 3); Huy chương Quyết thắng của quân Tình nguyện Việt Nam ở Lào và nhiều huy chương khác…
- 12 giải thưởng văn học, nghệ thuật, trong đó có giải thưởng Phạm Văn Đồng lần thứ nhất (1950-1951)
- Giải thưởng Nhà nước về Văn học – Nghệ thuật (đợt 3)
3. Một số bài thơ tiêu biểu:
Nói với người yêu
Anh yêu em vì sao không biết rõ
Chỉ biết yêu em anh thấy yêu đời
Như chim bay thở hút khí trời
Như ruộng lúa uống dòng nước ngọt
Em: hy vọng, em là mơ ước
Là niềm đau, nỗi khổ, nguồn vui
Trái tim anh ở trong ngực em rồi
Tim không thể rời em mà sống được
Và nếu ta đầu thai sang kiếp khác
Anh chắc rằng anh sẽ lại yêu em
Khi anh đứng canh cho Tổ quốc bình yên
Sung sướng thấy em gắn liền đất nước
Khi anh đổ mồ hôi tươi tốt đất
Vì ngày mai - anh hiểu cũng vì em
Tâm hồn anh như lửa mới bùng lên
Trán thêm rộng, tay thêm dài thêm vững...
Anh yêu em như yêu sự sống
Không băn khoăn em đẹp ít hay nhiều
Vì lẽ giản đơn: từ buổi anh yêu
Trong mộng, trong đời em đều đẹp nhất
Anh không chỉ yêu trời xanh trong mắt
Mà còn yêu nắng rám trên tay
Như hằng yêu vết sẹo dưới lông mày
Như vẫn thích nếp cằm dài bướng bỉnh
Anh yêu em không hề suy tính
Như kẻ đi buôn tính vốn tính lời
Càng thương em từ thuở nhỏ mồ côi
Như anh đã tự ngày thơ vắng mẹ
Cũng như em, không tiền tài, danh vị
Cũng như em, anh chỉ có tấm lòng
Ta còn nghèo, nhưng làm chủ núi sông
Đời vốn đẹp vì nỗi đau sinh nở
Anh chưa thể mua một món quà rất nhỏ
Song có thể cho em khối óc, bàn tay
Với tình yêu, ta sẽ dựng lâu đài
Cây hạnh phúc tưới mồ hôi sẽ lớn...
Em, em ơi, trên đường dài lý tưởng
Ta cầm tay nhau: vui sướng nào hơn?
Dù anh hay em ngã xuống nửa đường
Trong tim bạn ta vẫn cùng đi tới!...
Hà Nội, ngày cưới: 9-1-1961
Màu sắc
Anh đọc ngày nào trong sách:
Màu tím là màu nhớ nhung...
Từ bữa đôi ta xa cách:
Màu nào cũng nhớ cũng mong!
Màu huệ trắng nhắc áo em
Màu hồng tươi nhắc môi em
Liễu xanh dài nhắc tóc em
màu cờ đỏ càng nhắc em...
Quê hương bao nhiêu màu sắc
Nhớ em: thương bấy nhiêu màu
Như nhìn đôi mắt thẳm sâu
Anh thấy màu trời sắc biển...
Núi rừng Thanh Hóa, mùa thu 1960
Chuyện một anh bộ đội cụ Hồ
Chuyện Đinh Nói, chiến sĩ thi đua toàn quân
Có anh bộ đội Tây Nguyên
Nhập ngũ năm mười lăm tuổi
Xưa nay chỉ từng quen suối
Lần đầu gặp biển mông mênh...
Danh hiệu đầu tiên
Anh sung sướng mà ngỡ ngàng đón nhận
Là “Anh bộ đội cụ Hồ”
Khẩu súng đầu tiên dài chấm gót
Anh kiêu hãng vác trên vai mà ngập ngừng chân bước
Và hạnh phúc đầu tiên
Anh đón mừng còn ngỡ trong mơ:
Sau mấy mùa chiến dịch
Trong đại hội thi đua
Anh được gặp Bác Hồ!...
Cầm tay người lính trẻ
Bác khuyên nhủ ân cần:
“Gắng học mau biết chữ
Viết thư tin Bác mừng”
Từ đấy, đường hành quân
Ba lô người đi trước
Có những vần mới học
Viết trên tấm mo cau
Giúp cho người đi sau
Nhớ rành rành mặt chữ...
Qua mưa rừng, suối lũ
Qua dốc ngược, đèo cao
Anh học cả trong mơ
Trong giờ ăn, giấc ngủ...
Anh hứa với Bác rồi:
“Gắng học mau biết chữ!...
Ôi bức thư đầu tiên
Những dòng chữ đầu tiên
Anh viết dâng lên Bác
Cả tấm lòng Tây Nguyên!...
Sau một trận công đồn
Chịu mấy vết tử thương
Giữa vòng tay đồng đội
Anh nghẹn ngào trăn trối:
“Tôi chết rất thoả lòng
Vì đã từng gặp Bác...
Đã làm theo lời Bác
Tôi chết rất thoả lòng!...“
Ơi anh bộ đội Cụ Hồ
Anh chỉ mới một lần gặp Bác
Hình ảnh Bác Hồ anh mãi mãi mang theo
Lời hứa với Bác Hồ anh giữ trọn
Lũ chúng tôi bao lần gặp Bác
Đã bao lần hứa hẹn đinh ninh
Biết rồi đây có nói được như anh?...
Liên khu 5, 1953
Anh yêu em
Anh yêu em vì sao không rõ
Chỉ thấy yêu em anh thấy yêu đời
Như chim bay thở hít khí trời
Như ruộng lúa uống dòng nước ngọt
Em hy vọng, em là mơ ước
Là niềm vui nỗi khổ niềm đau
Trái tim anh ở trong ngực em rồi
Tim không thể rời em mà sống được.
Và nếu anh có đầu thai kiếp khác
Anh chắc rằng anh sẽ lại yêu em!
Khi anh đứng canh cho đất nước bình yên
Vui sướng thấy em gắn liền đất nước
Khi anh đổ mồ hôi tươi tốt đất
Vì ngày mai, anh hiểu cũng vì em
Tâm hồn anh như lửa mới bừng lên
Trán thêm rộng, tay thêm dài, thêm vững
Anh yêu em, anh yêu sự sống
Không băn khoăn em đẹp ít hay nhiều
Vì lẽ giản đơn từ buổi anh yêu
Trong mộng, trong đầu em đều đẹp .
Anh không chỉ yêu trời xanh trong mắt
Mà còn yêu nắng rám trên tay
Như từng yêu vết sẹo dưới lông mày
Như đã thích nét cằm dài bướng bỉnh
Anh yêu em không hề suy tính
Cũng như em, ta chỉ có tấm lòng
Ta còn nghèo nhưng làm chủ núi sông
Ðời ta đẹp như quê hương giàu có .
Anh chưa thể mua một món quà tặng
Song có thể cho em khối óc bàn tay
Với tình yêu ta sẽ dựng lâu đài
Cây hạnh phúc tưới tình yêu sẽ lớn.
Em ơi! Trên đường dài lý tưởng
Ta nắm tay nhau sung sướng nào hơn
Dù em hay anh ngã xuống giữa đường
Trong tim bạn ta vẫn cùng đi tới !
Giao thừa này, Báu ở đâu
Gửi Nguyễn Trung Thành
Giao thừa này, Báu ở đâu Báu nhỉ?
Giữa rừng Tây Nguyên hùng vĩ bóng xà nu
Mở đài khuya nghe thư Tết Bác Hồ?
Hay Báu ở một làng ven biển rộng
Đêm Quảng Ngãi trời đầy sao hi vọng
Đón giao thừa chờ tiếng pháo mừng xuân?
Hay Báu đã về xóm cũ Tam Quan
Ăn miếng dừa thơm đậm tình cá nước?
Hay là Báu đang cùng dân nổi đuốc
Thiêu hàng rào ấp chiến lược thành tro?…
Báu ở đâu, ở đâu giữa lúc giao thừa
Nam – Bắc gọi nhau dạt dào tưởng nhớ!…
Đọc thư Báu mà tưởng chừng nghe rõ
Chính mình đang tâm sự với mình:
“… Ôi những xóm làng rợp bóng dừa xanh
Đã ấp ủ ta mười năm kháng chiến
Đến cây cỏ cũng thiết tha, trìu mến
Đến khí trời cũng đùm bọc, thương yêu!…
Lớn giữa căm thù: kỳ diệu bao nhiêu
Em gái nhỏ thành anh hùng giết giặc
Làng ta đó, dưới mưa bom xơ xác
Giải phóng rồi cuộc sống hồi xuân.
Mỗi làng xóm đơn sơ, mỗi khuôn mặt bình thường
Đều chứa một bản trường ca bất tuyệt”.
Phải, Báu ơi: dẫu nghìn trang tiểu thuyết
Viết say mê chưa nói được một phần
Bởi anh hùng là tập thể nhân dân
Bởi Tổ quốc ta vô cùng vĩ đại!…
Trời Hà Nội vẫn xanh như buổi ấy
Hai đứa mình đi chợ Tết bên nhau
Nhưng năm nay tơ lụa ít khoe màu
Để áo nhuộm xanh sẵn sàng chiến đấu
Người lính phòng không đón giao thừa trên mâm pháo
Nhìn trời sao tưởng thấy cả miền Nam…
Phần mình thì tháng trước ở Nghệ An
Ra trận địa làm thơ cùng chiến sĩ.
Mình mong mỏi những vần thơ chống Mĩ
Sẽ hành quân bên pháo suốt đường dài
Và trong từng viên đạn diệt máy bay
Có chút hồn mình hoà trong thuốc nổ…
Mỗi khi gặp một người quen biết cũ
Báu nói giùm mình gửi lời thương
Trái tim mình vẫn đập giữa quê hương
Dù mình sống nơi nào trên trái đất.
Chưa trực tiếp ra chiến trường giết giặc
Bút mình cầm nguyện góp một mũi chông
Với triệu mũi chông nhọn hoắt căm hờn
Của nửa nước anh hùng đang rực đỏ…
Thôi Báu nhé, giao thừa đang tới đó;
Dù ở đâu ta vẫn đứng kề nhau
Bắc cùng Nam chỉ một chiến hào…
4. Viết về nhà thơ Lưu Trùng Dương:
Nguyễn Huy Thông:
Hình tượng anh “bộ đội Cụ Hồ” được nhà thơ tập trung ca ngợi nhất trong thơ, văn của mình, Có thể nói Lưu Trùng Dương là một trong số các nhà thơ hiện đại thủy chung, tâm huyết với đề tài anh “bộ đội Cụ Hồ” trong suốt cả cuộc đời cầm bút của mình. Đây là những con người sống rất đẹp, những người con của đất nước, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, hy sinh. Thơ Lưu Trùng Dương đề cập một cách phong phú, đa dạng về cuộc sống của bộ đội khi chiến đấu cũng như lúc luyện tập trên thao trường và tham gia làm kinh tế, ở trong nước và trên các chiến trường giúp nước bạn; về đời sống tinh thần, vật chất và cả cuộc sống riêng tư hạnh phúc của các chiến sĩ.
(Trích bài viết Lưu Trùng Dương, Nhà thơ của nhân dân, nhà thơ của anh “Bộ đội Cụ Hồ”)
Hồ Hoàng Thanh:
Qua hệ thống hình tượng phức hợp cảm hứng, giọng điệu, cấu trúc, nhân vật, bút pháp, hành văn, chất thơ của tiểu thuyết Họ đi tìm thiên đường (NXB Đà Nẵng, 1988) tỏa hương thơm tình thương nhân nghĩa nảy sinh từ tình yêu quê hương, cuộc sống, con người và tụ hội trong nỗi niềm khát khao hạnh phúc cho bản thân, gia đình, xã hội.
(Trích bài viết “Họ đi tìm thiên đường” và chất thơ trong văn xuôi)
PGS. TS Lưu Khánh Thơ:
Lưu Trùng Dương: Một đời thơ gắn bó với quê hương và đồng đội
Công việc văn chương là lẽ sống của cuộc đời
Ông bà nội tôi sinh được 4 người con trai. Cha tôi- nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận là anh cả, nhà thơ Lưu Trùng Dương (tên khai sinh Lưu Quang Lũy) là em út. Bà nội tôi họ Dương, qua đời khi còn rất trẻ. Lúc đó cha tôi 16 và chú Lũy mới lên 7 tuổi.
Kỷ niệm về mẹ thật ít ỏi, chỉ còn hiển hiện qua tấm hình một người phụ nữ có gương mặt trái xoan hiền dịu với đôi mắt đượm buồn. Thiếu vắng tình mẫu tử từ sớm là nỗi đau lớn nhất trong đời mấy anh em cha tôi. Đó cũng là lý do để khi bước chân vào con đường văn nghiệp Lưu Quang Lũy đổi tên thành Lưu Trùng Dương (sau này cả 3 đứa con của ông đều mang tên Dương).
Ba anh em họ Lưu gặp nhau tại Thủ đô Hà Nội năm 1954 sau 9 năm kháng chiến: Lưu Quang Thuận và vợ (đứng), Lưu Quang Thành và Lưu Trùng Dương (đội mũ bộ đội). Ảnh tư liệu gia đình cung cấp.
Đầu những năm 1940, cha tôi và chú Lũy rời thành phố Đà Nẵng quê hương ra Hà Nội sinh sống. Cha tôi làm thơ, viết kịch, rồi cùng với một số anh em, bạn bè sáng lập nhà xuất bản Hoa Lư. Chú Lũy đi học ở Trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An). Trước ngày toàn quốc kháng chiến tháng 12.1946, chú Lũy trở về quê hương làm cán bộ tuyên truyền xung phong Quảng Nam- Đà Nẵng. Một thời gian ngắn sau đó, theo thư gọi của Tướng Cao Văn Khánh, vốn là thầy giáo cũ từ hồi học ở Huế, ông đã đi bộ từ Quảng Nam vào Quảng Ngãi để gia nhập quân đội, đúng vào năm thứ 17 ngày sinh của mình: 5.5.1947. Kể từ ngày đó, ông đã gắn bó đời mình với sự nghiệp văn học của đất nước. Trong bài viết “Thơ Lưu Trùng Dương có nhiều ánh thép” nhân đọc Tuyển tập Lưu Trùng Dương nhà văn Đoàn Minh Tuấn đã viết: “Ông viết về anh bộ đội Cụ Hồ từ năm 1947 – 1948. “Tập thơ của người lính” của ông đã được Giải thưởng văn học Phạm Văn Đồng từ năm 1950. Hồi ấy in ấn khó khăn chúng tôi chép thơ ông và thơ Nguyễn Viết Lãm vào sổ tay của mình. Thơ của ông là thơ chiến đấu, thơ của chiến sĩ, thơ của đêm hành quân đánh giặc…”.
Lớp độc giả trẻ thời bây giờ chắc không nhiều người nhớ đến thơ Lưu Trùng Dương nhưng với những người đọc thời chiến thì thơ của ông đã nhiều năm chiếm lĩnh tâm hồn họ. Những bài thơ như: Mây biên giới, Đáng sống xiết bao một ngày vì cách mạng, Thương nhất anh nuôi, Thơ bay khắp đỉnh Trường Sơn… đã trở thành hành trang tinh thần của những người lính qua bao thế hệ.
Tự nguyện đi theo cách mạng cầm súng giữ nước, bước chân ông đã trải qua nhiều vùng chiến sự ác liệt, từ Đà Nẵng, Quảng Nam, Đường 9, Khe Sanh, Tây Nguyên cho đến nước bạn Lào. Đối với Lưu Trùng Dương, công việc văn chương là lẽ sống cuộc đời. Ông làm thơ không phải cho riêng mình, mà để góp phần tham gia kháng chiến, đánh giặc. Ông luôn tâm niệm rằng “Hạnh phúc lớn nhất của một đời thơ là đã viết được những câu thơ có ích cho nhân dân, cho cách mạng.” (Tự bạch).
Điều kỳ diệu của đời người
Đầu năm 1974, đang hoạt động ở chiến trường Khu V, nhà thơ Lưu Trùng Dương phát hiện bị mắc bệnh ung thư vòm họng. Điều trị ở Quân Y viện một thời gian nhưng sức khoẻ ngày càng giảm sút, cấp trên đưa ông ra miền Bắc chữa bệnh. Cùng đi ra đợt đó còn có nhà văn Phan Tứ bị chảy máu dạ dầy rất nặng.
Ngày tiễn nhà thơ Lưu Trùng Dương lên đường ra Bắc, anh em trong cơ quan Tuyên huấn và Văn nghệ khu V ngậm ngùi thương cảm. Nhiều người nghĩ rằng chắc khó gặp lại ông, vì căn bệnh hiểm nghèo như một cái án tử hình treo lơ lửng trên đầu. Những lời dặn dò, những bàn tay siết chặt, những giọt nước mắt và cả những bài thơ. Tôi đã được đọc một số bài, trong đó có bài của nhà thơ Ngô Thế Oanh (Đôi điều trong một đêm chia tay, Luôn nhớ anh, anh Dương…Và để chống đỡ cái thế giới kia đầy phức tạp lạ lùng/ta chỉ có một trái tim, trái tim trần trụi/với những câu thơ, như một tình yêu không mệt mỏi/mong thơ sẽ báo điều gì kỳ diệu hơn chăng?) Đó là những bài thơ viết ở suối Đăk Oa, mùa xuân 1974.
Và đúng là thơ sẽ báo điều gì kỳ diệu hơn chăng? Vượt qua căn bệnh hiểm nghèo, vượt qua bao gian truân, thử thách của số phận, ông vẫn tiếp tục sống và không ngừng sáng tác. Hàng chục tập thơ, trường ca, tiểu thuyết, phóng sự, bút ký, kịch bản phim tài liệu… nối tiếp nhau ra đời.
Thời gian gần đây, sức khỏe của ông giảm sút hẳn. Và đến hôm nay trái tim của người lính tình nguyện năm xưa đã ngừng đập. Ông trở về trong lòng đất mẹ với những đồng đội đã hy sinh, những người mà suốt đời ông đã tôn vinh họ bằng ngòi bút nhiệt huyết của mình.
HOÀNG HƯƠNG biên soạn