Tháng Ba - Truyện ngắn Trần Quỳnh Nga

01.03.2019

1.
Thiền Đức đại ni đang hấp hối... mau báo tin về Thăng Long!
Ta nghe bên trái nhà tăng các ni sư thì thầm về ta như vậy. Ngựa đưa tin đã gấp rút lên đường. Nhưng ta biết mình chẳng kịp để mong chờ tin trở lại bởi ta giờ như chiếc lá nhẹ nhàng rơi từ thinh không.

 Tháng Ba - Truyện ngắn Trần Quỳnh Nga

 Đó là một buổi chiều lộng gió, sau khi nghe xong một bài kinh, ta gọi tiểu ni cạnh mình:

- Tiểu Thanh! Ta nghe như có tiếng ngựa xa?

- Dạ không, thưa đại ni. Người nghe nhầm chăng?

- Ta...

- À, gió chướng, chắc người thấy lạnh, để con hạ bớt rèm cửa.

- Thôi con, cứ để thế cho có khí trời.

 Âu cũng là một đời ta, cũng là một đời người...

2.

Thiên Thụy công chúa mang trọng tội, làm nhiều điều trái đạo lí sẽ bị đày đến An Lạc Đường!

Ta đã từng nghe kể về lãnh cung như kể về một thế giới khác. Một thế giới không có ý niệm về thời gian bởi quanh năm hiếm khi thấy được mặt trời. Ở đó, chỉ có mùi tàn rữa của cỏ cây và thây người nằm dưới một gốc gạo. Người ta bảo gốc gạo đó nối giữa trời và đất nên chỉ khi nào hoa gạo rụng, người trong An Lạc Đường mới biết ngoài kia đang là tháng Ba - mùa ân xá một năm chỉ có một lần!

An Lạc Đường! An Lạc Đường...

Lãnh cung… lãnh cung!

Tiếng con vẹt chéc lên như mũi tên rời cung bay vút cắm phập vào tấm gỗ lâu ngày đóng kín. Cánh cửa đang từ từ mở ra. Khuất lấp dưới vườn hoang cây dại bít bùng là căn phòng im ỉm khóa lạnh lẽo tựa như chưa bao giờ biết đến hơi người.

Vậy mà giờ ta bị đày đến đây, bước chân qua cánh cửa chật hẹp và tăm tối này mà vẫn không thể tin nơi đây là An Lạc Đường - nỗi khiếp đảm mà chốn hậu cung vẫn thường nói đến. Hình như ta không thấy sợ hãi. Ta thấy nơi đây bình yên. So với rượu độc, nơi đây, ta được sống. So với hậu cung, nơi đây ta được trú mình. Ta thà làm bạn với ma quỷ còn hơn phải đối mặt với lũ người ngoài kia thì thầm bàn tán chỉ trỏ về ta như một vết nhơ không thể nào gột rửa.

Ta đẩy cửa bước vào căn phòng tối sực mùi ẩm mốc rồi nằm nghe sương rơi ngoài sân, tự lòng an ủi mình rằng: dù có thế nào nữa thì cuộc sống vẫn diễn ra như nó mong muốn...

Còn nhớ năm mười bốn tuổi ta được theo phụ hoàng đến xem đấu hổ ở Vọng Lâu. Trên đài cao, hôm đó, lần đầu tiên trong đời ta hiểu vì sao Khánh Dư lại được lòng ưu ái của phụ hoàng đến vậy. Không ô che lọng rước, không người hầu đứng bên, Dư lặng lẽ ngồi gần phía khán đài tách hẳn với đám hoàng tử công chúa áo váy rực rỡ, bộ đồ nâu bó sát người gọn ghẽ, khuôn mặt với sống mũi thẳng kiên quyết, Dư đang chăm chú nhìn vào cánh cửa chuồng hổ đang sẵn sàng bật mở với tâm thế của một chiến binh. Chàng không để ý rằng hoàng thượng đang nhìn chàng. Một mặt phụ hoàng tự hào trước một người tướng tài trẻ tuổi, một mặt người có phần lo ngại khi trong đám hoàng tử của mình không ai có được dung mạo mạnh mẽ và tiên quyết, tài năng như thế.

Đúng giờ ngọ, đội hòa nhạc cử hành nhạc lễ. Tiếng trống thúc liên hồi. Đám đông đang ồn ã đột nhiên yên lặng. Cửa chuồng bật mở, một con hổ vằn nhảy vọt ra, ngoảnh nhìn trừng trừng bốn phía rồi gầm lên vang dội. Bên kia, voi ngần ngại chưa xông ra. Quân tượng phải lấy búa đánh thúc. Thấy voi, hổ hung hăng sấn lại, tung mình bấu vào cổ voi mà cấu xé... đám đông hò hét vang trời.

Rồi trong cơn cuồng nộ, con hổ bất ngờ nhảy lên vọng lâu làm tất cả bàng hoàng kinh hãi kêu rú lên xô nhau bỏ chạy hoảng loạn.

Con hổ nhằm vào đám đông. Đội ngự vệ bị bất ngờ vội vàng vây kín bảo vệ hoàng thượng và các công chúa, hoàng tử. Chỉ còn lại mình ta đang chới với trong đám đông nhốn nháo xô đẩy.

Trong lúc hoang mang sợ hãi nhất, một tấm áo choàng tung lên, rất nhanh quấn lấy ta trước khi con hổ tiến lại gần. Ta đã nín lặng như thế cho đến khi ánh sáng chói lòa rọi vào mắt. Hai bàn tay mạnh mẽ đỡ lấy vai và cả khuôn mặt cúi sát mặt ta nhẹ nhàng lay nhẹ.

- Ổn rồi! Hoàng muội.

Sững sờ và run rẩy. Ta hé hé mắt nhìn. Lần đầu tiên trong đời ta chạm ánh mắt Dư và bối rối quay đi nhưng lòng đã như chợt hiểu rằng mọi sợ hãi trên đời đều dừng lại ở đấy. Sau này, khi gặp ta, duyên nợ với ta, Dư mới thú nhận rằng: hân hoan của chàng không phải là chức phiêu kị tướng quân bôn ba lẫy lừng được tung hô trong đoàn quân chiến thắng mà là khi chàng vội vàng ghìm dây cương nhảy xuống dang tay đón lấy ta như con chim sà vào tấm áo choàng còn ám đầy mùi chinh chiến.

Trời đã cho chúng ta là một đôi. Đã dệt cho chúng ta bao nhiêu là mộng đẹp.

Từ ngày có Dư ta như thấy lại chính mình. Ta tách biệt với đám đông huynh đệ lố nhố ngoài kia, ngày ngày chăm chỉ đọc sách, học may vá, học thêu thùa, học trồng rau, lẫy cỏ. Dư từ ngày có ta ngày đêm luyện tập võ nghệ mong lập công dâng lên ơn trên để tỏ lòng hiếu thuận, trung thành. Chúng ta đã cùng nhau mơ về một giấc mơ nhỏ nhoi. Mùa lễ hội sắp tới thể nào phụ hoàng cũng sẽ bàn đến việc hạ giá cho ta, người sẽ đích thân chọn phò mã cho người con mà người yêu thương nhất.

Ánh sáng mùa xuân đang bừng lên rải muôn nghìn tia nắng hi vọng vào khu vườn ta đẹp đẽ. Cả hậu cung như hân hoan trước cái duyên mà lá ngọc cành vàng như ta có được. Trai anh hùng với gái thuyền quyên. Âu cũng là hợp lẽ trời.

Nhưng người đã tính. Định mệnh đã cho ta gặp Dư như vậy, phụ hoàng cũng đã biết người cứu ta thoát khỏi nanh hổ năm đó là Dư rồi, vậy mà sao sau khi hội nghị Diên Hồng vừa tan người còn gật đầu để đẹp lòng Hưng Đạo Vương mà hứa hôn ta với Quốc Nghiễn?

Buổi đó ta đã khóc.

Ta nước mắt đầm đìa gối chăn mà không thể nào làm hoàng thượng mủi lòng. Kỉ luật và sự tuân phục đối với hoàng thượng lớn đến nỗi không một ai dám nói lời can gián. Ta, một công chúa được vua yêu mến, sinh ra chính từ giấc mộng của nhà vua nên được người nhất mực thương yêu nhưng cũng chính ta, đã bị người khước từ ân huệ được tự do lựa chọn hạnh phúc.

- Không được.

- Phụ hoàng…

- Ai thì ta có thể xem xét nhưng Khánh Dư thì không.

- Tại sao ạ?

- Ta chỉ muốn những điều tốt đẹp cho con, cho nhiều việc lớn khác nữa. Chi bằng con làm vợ của Quốc Nghiễn cũng là một công đôi việc. Nó vừa được lòng ta, ta lại vừa được Hưng Đạo Vương...

Phụ hoàng phẩy tay không cho ta nói thêm một lời nào.

Đêm đó Dư đã say. Tưởng như có trận cuồng phong vừa đi qua vùng bãi giữa sông Hồng điệp trùng lau lách. Tất cả ngã rạp gãy nát dưới lưỡi đao điên cuồng của Dư. Bao nhiêu rượu trên thế gian này Dư đem ra đổ xuống sông Hồng để mà vùng vẫy. Nhưng không gì có thể ngăn cản được khi trong tim Dư đang chứa đầy cừu hận. Dư hận cả ta.

Chẳng ai chế ngự được Dư lúc này ngoài ta cả. Ta biết điều đó. Ta không đành nhìn Dư bị đọa đày đến thế!

Đêm đó, ta đạp phăng tất cả mọi nỗi sợ trên đời. Không còn phụ hoàng, không còn công chúa, không còn lễ tiết, không còn phẩm hạnh…ta bỏ chạy tìm Dư. Cho đến tận cùng sự sợ hãi ta lại gặp được Dư. Ánh mắt của Dư cho ta biết đâu là đúng sai, đâu là hạnh phúc trong cuộc đời ngắn ngủi này.

Đêm đó, đêm nguyệt thực. Mặt trăng đang sáng rỡ bỗng nhiên bị ăn mòn. Trời đất sầm tối. Gió vần vũ thổi. Ta kìm cương ngựa luống cuống chạy đến ôm lấy vai Dư. Lần đầu tiên trong đời ta nhận ra mình mạnh mẽ biết nhường nào khi vòng tay ôm chầm lấy một đứa trẻ đang đầy hờn dỗi vụng về. Ta không còn chú ý tới mặt trăng nữa… Ta nhắm mắt lại cúi đầu gặp hơi thở của Dư rồi thả mình trôi theo những cơn sóng mê cuồng…

3.

- Ta là ai? Là Thiền Đức đại ni hay là công chúa Thiên Thụy?

- Ngươi ư? Ngươi chỉ là một con người. Một con người không dám sống với thực tại và ước mơ kiêu hãnh của mình, để rồi phải nương nhờ cõi Phật mà tìm nơi trú ẩn.

- Ngẫm ra muôn sự tại trời…

- Không. Tại mình…

4.

Đoàn quân chiến thắng!

Trên bến Đông Bộ Đầu phía đông kinh thành kèn trống rợp trời. Thăng Long vui như trẩy hội chào đón đoàn quân ca khúc khải hoàn.


Minh họa: Trương Đình Dung

Cuộc vui mới vừa tàn mà thánh chỉ đã tới vội vàng:

“Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư mang trọng tội, làm trái với luân thường đạo lí, tư thông với công chúa Thiên Thụy nay cách hết quan tước, tịch thu gia sản, xử tội đánh đến chết...”.

 - Đánh đi, giết ta đi!

Là Dư hét lên như thế giữa công đường. Lúc ấy trời nắng lắm nhưng không nóng bằng lòng ta khi nhìn thấy Dư. Lòng ta như trăm ngàn vết cứa. Cơ thể Dư nát nhừ dưới đòn trượng vẫn chưa đến hồi kết thúc. Mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt các quan đại thần và đám đông hiếu kì vây quanh. Một vở kịch hay đang diễn ra, kẻ hào hứng, người ái ngại đều đang đổ dồn vào Dư, xem chàng liệu có còn cơ hội sống sót khi số trượng đang dần được đếm ngược.

Ta cắn môi đến bật máu nhìn Dư, thổn thức nhớ lại những ngày tươi vui trước đó. Đêm đó, trăng nồng nã lắm. Bãi cỏ ướt sương đêm, ta run rẩy khóc. Như một dự cảm, Dư nâng lấy cằm ta, nhìn sâu vào trong mắt ta nói như khẩn cầu:

- Nàng hãy trốn cùng ta.

- Mình sẽ đi về đâu?

- Đi cùng trời cuối đất.

- Nhưng nơi đâu trên đất này đều là của phụ hoàng chàng không hiểu sao.

- Hiểu! Hiểu! Hiểu! Tại sao nàng cứ sợ hãi như thế? Tại sao nàng không dám sống cho mình, vì mình. Cuộc đời này ngắn ngủi lắm nàng không hiểu sao?

Lúc đó, Dư nắm chặt tay ta không rời mà tay ta như buông lơi. Dư nói rồi lặng yên. Ta, niềm hi vọng cuối cùng của Dư, chỗ nương tựa cuối cùng của Dư vẫn ngồi im không tìm ra cho mình được một lối thoát. Ta bất lực nhìn Dư. Con chim đại bàng đang tung cánh bay dũng mãnh phút chốc bị bắn gục rơi nhanh xuống đất. Người ta trói gập khuỷu cánh lại mặc cho nó giãy giụa bất lực.

Nhắm mắt lại ta vẫn hình dung ra giữa pháp trường, buổi ấy. Dư bị trói nằm sấp trên chiếc ghế hành hình. Lặng lẽ. Đòn trượng vụt xuống không làm da thịt Dư nát thêm được nữa. Cơn đau hình như cũng dừng lại. Nó có thấm vào đâu so với tim Dư đang rỉ máu vì ta.

Bởi thế mà Dư sống. Một trăm trượng! Xưa nay không mấy người qua một trăm trượng mà sống được bao giờ!

*

* *

Sau cuộc ồn ã đó, kinh thành lại trở về với vẻ vốn có của nó. Cờ phướn rợp trời, trống chiêng ầm ĩ… Ngày xuân, lễ hội còn kéo dài cho hết tháng Ba.

Chỉ còn ta trong An Lạc Đường. Thời gian nhởn nhơ như trêu ngươi. Ta chẳng còn ý niệm, chẳng còn biết nó ngược xuôi thế nào nữa. Xung quanh ta chỉ là một khoảng sáng lờ nhờ bên khu giếng ẩm. Vậy mà kì lạ thay, vượt ra khỏi vòng xoáy của sự hỗn độn đó lòng ta chẳng còn trống trải và cô đơn nữa. Đắm chìm vào sự tĩnh lặng khôn cùng nơi đây ta mới nhận ra cô đơn cũng là một niềm an ủi vô bờ. Lúc đó, ta thấy mình như thảm cỏ dưới gốc cây gạo già an nhiên.

Lộc gộc! Lộc gộc! Tiếng động nào thế nhỉ? Bao lâu rồi ở An Lạc Đường này tiếng động luôn khiến ta giật mình. Ta nằm im. Một nỗi sợ mơ hồ làm tim ta thắt lại.

- Công chúa!

Có tiếng gọi ta khe khẽ cất lên như thế cùng với bước chân giẫm trên tàn lá khô.

- Là nhũ mẫu đây, công chúa.

Nhũ mẫu! Lòng ta như hân hoan khi được gặp người. Với ta, ngoài Dư ra, nhũ mẫu là người thương yêu ta nhiều nhất. Bàn tay ấy đã ôm ta từ khi còn đang ẵm ngửa. Bầu sữa đó đã rón rén nhỏ vào miệng đứa trẻ bị sinh thiếu tháng những dòng ngọt lành khiến ta hồi sinh. Người đã chứng kiến ta lớn lên hằng ngày cho tới khi ta đến An Lạc Đường.

Người đến để nhìn ta lần cuối trước khi rời cung.

Đêm đó, ta được nhũ mẫu kể cho nghe một câu chuyện lạ về người bán than trên bến Bình Than. Những ngày tháng Ba thanh bình. Trời phơi xuân. Nắng chan hòa rải trên mặt nước một màu vàng sóng sánh đến lạ. Người ta thấy thuyền than trôi trên sông. Người cứ để mặc thuyền trôi suốt một đoạn sông dài rồi quay mũi thuyền tấp vào một đám lau sậy trắng muốt. Khách lãng du ngồi uống rượu một mình trên thuyền. Cái nón lá che kín nửa khuôn mặt thoáng một nét buồn u ẩn. Bến vắng. Trên bến, cây gạo già thả xuống dòng sông những bông hoa đỏ rực như lửa. Loài hoa vừa mới gọi tên thôi đã khiến lòng ta nhói buốt rồi!

Người đó là Dư! Là Dư! Ta đã nghĩ như vậy.

Thay vì khóc nấc lên ta lại điên loạn cười khanh khách nhìn nhũ mẫu đưa tay lau nước mắt. Bà cầm đôi tay ta lạnh ngắt đang run từng đợt áp lên má bà. Ta vùng vằng đẩy ra. Bao giận dỗi oan khiên. Bao thê thiết điên loạn dồn cả lên tấm thân gầy khiến người quỵ xuống ôm chầm lấy chân ta. Người đâu có là mẹ ta, đâu có là cha ta mà lại đau nỗi đau của con trẻ lúc này. Giờ đây, trong lúc sắp rời xa ta, trái tim người vẫn không thôi lo nghĩ về ta mà lòng nức nở:

- Giá đưa được người rời khỏi nơi đây, khổ thân công chúa… mang danh là một quý nhân mà lại phải sống kiếp tù đày!

- Nhũ mẫu! Người đừng khóc, giam cầm đâu có làm trái tim con đau… chỉ tại lòng con nghĩ gieo tin yêu sẽ gặt được những điều hạnh phúc nhưng không phải. Hạnh phúc ở nơi đâu trên thế gian này, người hỡi?

- Nó ở trong lòng nhũ mẫu khi nhũ mẫu ôm con.

- …

- Và trong lòng con, khi con có Dư ư?

- Là vậy. Khi con dành trái tim con cho người nào thì thế giới của con ở đó, hạnh phúc của con cũng đến từ nơi đó.

- Vậy thì con chẳng mong đợi gì thế giới ngoài kia nữa, nhũ mẫu. Người cho con nằm gối đầu lên chân người lần nữa đi rồi người rời cung khỏi tối.

Chiều hôm đó nắng quái, An Lạc Đường như hừng lên ánh vàng. Căn phòng quanh năm sực mùi ẩm mốc phút chốc tan biến, nhường chỗ cho mùi trầu quế thơm nồng khắp gối chăn. Ta thiếp đi và thấy mình đang trên lưng con ngựa bạch lao đi vun vút trên thảo nguyên rộng lớn. Tóc ta xổ tung. Còn Dư đang chốc chốc cố ghìm dây cương để được dụi đầu trên tóc ta thơm lừng hương sả và cùng cười hạnh phúc. Tiếng cười của Dư khiến ta không còn nghe, từ bậc cửa An Lạc Đường, người đàn bà cất tiếng ru não nề mà ngân vang như một khúc ca:

Gió đưa cây trúc ngã quỳ

Ba năm chực tiết còn gì là xuân.

5.

Là bài hát cho ta đấy ư? Công chúa sắc như bình bạc, mặt tựa gương báu mà sao cuộc đời lại bi ai đến thế? Phải người không, đại ni, sao người nghĩ vậy, Phật gia có câu: “Tốt xấu xuất từ một niệm”. Người đã một lòng hướng Phật không thúc thủ trước những khổ đau, đã vượt ra ngoài vòng trần lụy rồi sao còn hỏi câu đấy?

Ta rốt cuộc cũng chỉ là một phận người…

6.

Kinh thành mới được lưng chừng lễ hội thì có biến. Vó ngựa Nguyên Mông như bão lũ tràn vào khiến Thăng Long không kịp trở tay. Không để chiếc bình bạc bị vỡ. Cánh cửa An Lạc Đường một sớm mùa xuân đột nhiên mở toang. Ánh sáng chói lòa. Ta lại là công chúa được khoác trên mình những xiêm y lộng lẫy. Hoàng tộc lại tìm cách đưa ta sang sông làm con chim xanh để tìm cách hoãn binh.

Sáng đó, mặt sông êm đềm sương phủ. Con thuyền có hình chim phụng rời bến lững lờ trôi trên sông. Ta ngồi cuối mũi thuyền, hết nhìn lá cờ tuyết mao chấp chới bay trên đầu lại nhìn xuống dòng nước đang cuộn chảy chợt nhận ra mình suốt một đời cũng không thoát khỏi phận cá chậu chim lồng. Lễ giáo khắc nghiệt tối tăm cứ như lưới giăng không bao giờ thoát khỏi. Giờ đây, giữa dòng nước xanh trong này ta muốn chọn cho mình một thế giới khác. Thế giới của tự do không có chỗ cho một tội đồ bị đày trong lãnh cung hay là một liệt nữ quên mình vì nước mang danh ta được nữa.

Dòng sông mở lòng đón ta từ lúc đó. Ta nằm im trong sự bao dung vô bờ, nước vấn vít vỗ về nâng ta lên thinh không nơi có giọng hát vang lên thê thiết.

“Bởi vì một người từ bỏ một tòa thành

Chỉ bởi vì một người mà tìm cả một đời

Ta vẫn là ta như chưa từng rời đi

Bởi vì một tòa thành mà đánh mất một người

Yêu đến cuối cũng chỉ là vô nghĩa…“.

7.

- Vô nghĩa… tất cả đều vô nghĩa.

- Không, không đúng, đại ni, người đã vì muôn dân mà dìu dắt chúng sinh. Người cho khai khẩn đất hoang, lập điền trang, trồng cấy lương thực, mở chợ cho dân buôn bán, quy tụ dân trong vùng đến làm ăn sinh sống… đó làm sao gọi là vô nghĩa.

- Nhưng ta… sâu thẳm lòng ta vẫn mang nợ…

Đại ni nói được đến thế rồi khẽ khàng nhắm mắt. Đêm sầm sập xuống. Tiếng chuông chiều tắt lịm giữa lưng chừng trời.

Không lâu sau đó, trước cổng chùa có tiếng ngựa ghìm cương. Viên tướng nhảy như bay xuống ngựa, áo choàng còn nguyên mùi chinh chiến. Nhưng đã muộn. Đại ni đã viên tịch. Bàn tay kia đã nguội lạnh rồi. Người nằm giống như đang ngủ, khuôn mặt vẫn tự tại, làn da hồng hào và thanh thoát. Không có chút gì là dấu vết của sự khổ đau.

Viên tướng quỳ phục dưới đất, bờ vai rung lên nức nở.

Ngoài sân gió vần vũ thổi. Mùa hoa gạo buông lơi... Những bông hoa rơi xuống đỏ cả một góc chùa.

T.Q.N
(vannghequandoi.com.vn)