Nhớ về kỳ Đại hội Đặc Khu ủy Quảng Đà

02.11.2020
Lê Năng Đông

Nhớ về kỳ Đại hội Đặc Khu ủy Quảng Đà

Sau Hiệp định Pa-ri, nhất là trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 21 (7/1973): “Con đường cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng, xác định phương châm của cách mạng miền Nam là đánh địch phá hoại hiệp định Pa-ri, không những chỉ đánh trả mà còn phải phản công lại, tấn công cả vào căn cứ và sào huyệt của chúng”(*).

Trước tình hình và bước chuyển mới của phong trào cách mạng, Đảng bộ Quảng Đà mở Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần thứ X đề ra phương hướng nhiệm vụ mới, trước đó, từ ngày 10 - 20/3/1973, Đảng bộ tỉnh Quảng Nam đã tiến hành Đại hội lần thứ X.

Đại hội Đảng bộ Đặc Khu ủy Quảng Đà được tổ chức từ ngày 4 - 10/9/1973, tại Căn cứ A7 vùng giáp ranh giữa Đại Lộc với Nam Giang (còn gọi là bộ phận phía sau). Xin được nói thêm, từ cuối năm 1968, Bộ phận phía trước hay còn gọi là bộ phận tiền phương của Đặc Khu ủy Quảng Đà đã chuyển về đứng chân ở căn cứ Hòn Tàu. Bộ phận phía sau (A7) đứng chân tại khu vực Thạnh Mỹ (Nam Giang), đây là nơi sản xuất, nơi diễn ra các hội nghị sơ kết, tổng kết và Đại hội của Đảng bộ Đặc khu.

Để phục vụ Đại hội, lúc bấy giờ Đặc Khu ủy giao đồng chí Phạm Đức Nam, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời Đặc khu chỉ đạo trực tiếp các cơ quan khối chính quyền lo xây dựng hội trường và khu nhà ở cho các đại biểu về dự Đại hội. Còn khu vực hậu cứ - nơi làm việc của một số cơ quan khối chính quyền trước đây được sửa lại, đồng thời làm thêm một số nhà xung quanh để sử dụng làm địa điểm họp tổ tại Đại hội. Một nhiệm vụ rất quan trọng đó là công tác hậu cần phục vụ, nhiệm vụ này được giao cho bộ phận Quản trị của Văn phòng Đặc khu lo gùi cõng lương thực, thực phẩm.

Công tác chuẩn bị phục vụ Đại hội Đặc Khu ủy Quảng Đà diễn ra trong không khí hết sức vui mừng và phấn khởi trước những bước tiến nhảy vọt của cách mạng miền Nam, trước thế và lực của ta được tăng lên rất mạnh. Lúc này đồng bào, cán bộ chiến sĩ và nhân dân các dân tộc miền núi Đặc khu Quảng Đà hết sức vui mừng, phấn khởi và hân hoan chào đón các chiến sĩ công binh Đoàn 559 đang ngày đêm khẩn trương khai thông đường Trường Sơn. Tuyến đường chi viện chiến lược đường Trường Sơn đã từng bước được khai mở từ A Sầu (huyện A Lưới) đến chân đèo Bù Lạch (xã A Nông) qua Trao xuống Bến Giằng, mở ra hệ thống tuyến giao thông huyết mạch liên hoàn đến miền Tây của tỉnh. Cũng trên cung đường Trường Sơn huyền thoại này đã chứng kiến biết bao câu chuyện cũng như tinh thần chiến đấu, hy sinh vô cùng dũng cảm của chiến sĩ, đồng bào các dân tộc miền núi Quảng Nam để khai thông và giữ vững tuyến chi viện huyết mạch. Vì vậy, mới có câu “Qua Trao thì đến Bến Giằng/Phải chăng Đất Quảng anh hùng là đây!”.

Theo đồng chí Phạm Thanh Ba, nguyên Chánh Văn phòng Đặc Khu ủy Quảng Đà: “Trong thời gian diễn ra Đại hội, một sự kiện gây ấn tượng sâu sắc nhất là việc tổ chức đón tiếp đoàn xe vận tải của Binh trạm 38 chở lương thực, thuốc men, súng đạn chi viện cho Mặt trận 4 Quảng Đà. Trên con đường vừa mới mở còn ngổn ngang đất đá, đoàn xe tiến vào khu Đại hội trong tiếng hò reo, vỗ tay không dứt của các đại biểu, của đông đảo cán bộ chiến sĩ và đồng bào các dân tộc huyện Nam Giang. Cuộc đón tiếp trở thành cuộc gặp gỡ quân dân hết sức cảm động. Nhiều đại biểu, nhất là các đồng chí nữ ôm lấy các đồng chí lái xe mà nước mắt chảy dài, vì xúc động không nói nên lời. Nhiều cụ già dân tộc leo lên xe mải miết nhìn ngắm các hòm vũ khí đạn dược với vẻ phấn khởi tự hào. Tối hôm đó các Đại biểu dự Đại hội, cán bộ nhân dân các dân tộc huyện Nam Giang ở khu vực Thạnh Mỹ cùng với cán bộ Binh trạm 38 được xem phim do Đội điện ảnh của tỉnh phục vụ”.

“Khác với các lần Đại hội trước, Đại hội lần này được sử dụng lương thực và thực phẩm chi viện từ miền Bắc do Binh trạm 38 thuộc Binh đoàn 559 ủng hộ. Các đại biểu được ăn gạo, thịt hộp, cá hộp do Trung Quốc viện trợ, được thưởng thức lương khô, đường sữa từ miền Bắc chuyển vào. Các đại biểu, đặc biệt là các đồng chí công tác ở vùng ven, ở thành phố, vô cùng phấn khởi, có đồng chí cầm bánh lương khô trên tay mà hai hàng nước mắt chảy dài, cảm động không nói nên lời. Cảm động vì lần đầu tiên được sử dụng món quà chi viện đầy nghĩa tình của hậu phương miền Bắc ruột thịt. Hơn thế nó vượt ra ngoài ý nghĩa một món quà bình thường mà dấu hiệu của sự lớn mạnh vượt bậc của quân đội ta, báo trước ngày thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống quân xâm lược”, đồng chí Phạm Thanh Ba nhấn mạnh.

Được chứng kiến không khí vô cùng nhộn nhịp và khẩn trương trên công trường; được nhìn thấy những đoàn xe vận tải nối đuôi nhau hối hả chở hàng chi viện cho chiến trường miền Nam, Đại hội tỏ rõ một khí thế mới, một quyết tâm và niềm tin mới. Mặc dù thực tế trên chiến trường trước mắt còn nhiều khó khăn, nhưng mỗi đại biểu đều thể hiện rõ niềm tin tuyệt đối vào những nhiệm vụ sắp đến.

Đại hội đánh giá tình hình địch ta, những khó khăn, thuận lợi và những bước đi của Đảng bộ qua chặng đường máu lửa suốt 19 năm chống Mỹ trên quê hương đất Quảng. Được Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành Trung ương và trực tiếp là Nghị quyết Khu ủy 5 (tháng 7/1973) soi sáng, Đại hội đã đề ra nhiệm vụ trước mắt của Đảng bộ là: ra sức đánh bại lấn chiếm bình định của địch, giành dân, giữ dân, mở rộng quyền làm chủ, phát triển thực lực của ta. Hướng tấn công chủ yếu là nhằm vào vùng tranh chấp và vùng địch. Phương châm đấu tranh là đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh quân sự, đấu tranh ngoại giao. Đại hội đề ra công tác xây dựng Đảng, chú trọng xây dựng các Đảng bộ xã, thôn vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Công tác tư tưởng phải làm cho cán bộ, đảng viên thấy rõ tình hình với những diễn biến khó khăn, phức tạp và bản chất ngoan cố, hiếu chiến của địch nhằm phá hoại hiệp định Pa-ri, kéo dài “Việt Nam hóa chiến tranh”. Từ đó, gây cho được chuyển biến nhảy vọt về nhận thức tư tưởng trong cán bộ, đảng viên; quán triệt quan điểm bạo lực cách mạng, phương hướng, phương châm, tình hình nhiệm vụ mới, đánh giá đúng địch ta, phát huy cao độ tinh thần cách mạng tiến công, nêu cao lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc.

Đại hội đề ra chủ trương mở các đợt chỉnh huấn, chỉnh quân nhằm xác định đúng đắn mục tiêu lý tưởng, khắc phục biểu hiện tư tưởng hữu khuynh, cá nhân chủ nghĩa, bi quan tiêu cực, hoài nghi thắng lợi, hòa bình chủ nghĩa, giảm sút ý chí chiến đấu, ngại hy sinh ác liệt. Toàn Đảng bộ, toàn quân tập trung mọi nỗ lực nhằm bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn cách mạng mới.

Đại hội Đảng bộ Quảng Nam và Đặc khu Quảng Đà đã tổng kết một cách toàn diện các mặt hoạt động của hai Đảng bộ suốt trong những năm dài chống Mỹ, đề ra phương hướng và nhiệm vụ mới cho giai đoạn có tính chất bước ngoặt của sự nghiệp giải phóng hoàn toàn quê hương Quảng Nam - Đà Nẵng.

Về ý nghĩa của Đại hội lần này, theo đồng chí Phạm Thanh Ba: “Đại hội Đảng bộ Đặc Khu ủy Quảng Đà lần này thực sự là Đại hội bản lề, Đại hội đã tạo nên một niềm tin, quyết tâm mới, đánh dấu một thời kỳ mới cho sự nghiệp giải phóng quê hương. Đại hội đã thổi một luồng sinh khí mới vào phong trào cách mạng trong tỉnh, làm dấy lên phong trào thi đua giết giặc lập công trong cán bộ, đảng viên trên cả ba mặt trận quân sự, chính trị, binh vận”.

Nhằm chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công mùa xuân năm 1975, từ cuối năm 1974, mạng lưới giao thông được củng cố và mở rộng từ tuyến đường chiến lược đường Trường Sơn tỏa xuống các huyện đồng bằng, bảo đảm cho xe cơ giới đưa hàng từ Trường Sơn về các chiến trường. Quân dân các huyện miền núi cùng bộ đội ngày đêm bạt núi san đồi, mở rộng. Đường Thắng Lợi nối liền với đường đông Trường Sơn từ Thạnh Mỹ, xuống Dốc Voi, vượt qua ngã ba Quế Sơn, cách Nông Sơn 7 km về phía tây bắc rồi từ đấy băng qua Thọ Lâm xuống vùng B Đại Lộc, nhằm vào Thượng Đức, với tổng chiều dài khoảng 36 km. Đường Quyết Thắng chạy từ Prao (đoạn nối với đường Trường Sơn) xuống đến Trung Mang về Đà Nẵng - con đường lịch sử rút ngắn khoảng cách giữa hậu phương lớn miền Bắc với Quảng Đà và cả miền Nam, báo hiệu cho ngày toàn thắng, giải phóng Đà Nẵng không còn xa nữa.

L.N.Đ