Đi qua miền đất thiêng…

06.12.2025
Nguyễn Thành

Đi qua miền đất thiêng…

Một góc thánh đô Srisanabhadresvara - Di sản văn hóa thế giới ở thung lũng Mỹ Sơn

Trên lãnh thổ của Chămpa xưa - nơi ngày nay là xứ Quảng, có đến hai kinh đô cùng hai thánh địa và Phật viện, tạo nên một vùng đất thiêng với trầm tích lịch sử, văn hóa đa dạng, phong phú của một nền văn minh rực rỡ. Đi qua những miền di tích ấy, chợt nghĩ, trân trọng quá khứ không chỉ là nghiên cứu, khai quật, khôi phục hay bảo tồn văn hóa cổ, mà quan trọng hơn, từ đó con người biết suy ngẫm về cách ứng xử với hiện tại và hướng đến một Đà Nẵng hiện đại và vững bền.

* Kinh thành Indrapura - cần được “gọi tên”

Nhớ bữa trà dư tửu hậu trước khi sáp nhập Quảng Nam và Đà Nẵng, một người bạn đặt câu hỏi: “Có ai biết huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam đặt tên mới cho xã nào hay nhất không?”.

Đó là trước ngày 01/7/2025, khi các địa phương đang lấy ý kiến đặt tên cho các xã, phường trước khi sáp nhập. Đợi hồi lâu, chính chủ nhân câu hỏi phải lên tiếng: “Tôi thấy cái tên xã Đồng Dương là hay và ý nghĩa nhất!”. Mấy tiếng “ồ” lên hưởng ứng: Đúng rồi!

Xã Đồng Dương được hình thành từ các xã Bình Định (vốn nhập từ hai xã Bình Định Nam và Bình Định Bắc trước đó), cùng với xã Bình Trị và Bình Lãnh - ba xã cánh Tây của huyện Thăng Bình. Nhắc đến Đồng Dương, người nghe lập tức “định vị” ngay địa danh đơn vị hành chính cấp xã này, rất thuận tiện và không… tranh cãi. Bởi trong cái tên ấy ẩn chứa những giá trị lịch sử - văn hóa mang tầm vóc lớn lao.

Đồng Dương là “cánh đồng thiêng - Yan”, nơi vương quốc Chămpa xây dựng nên Indrapura - còn gọi là kinh thành Sấm Sét (theo tiếng Hán là Lôi Điện Thành), cùng Phật viện và đền thờ Laksmindra Lokesvara, công trình có tầm vóc không chỉ của Vương quốc Chămpa mà còn vang danh khắp Đông Nam Á thời trung đại.

Tôi sinh ra và lớn lên bên cạnh những di tích trên cánh đồng thiêng này, được sống trong bầu không khí đầy huyền tích xứ Chămpa của “người Hời”. Trong số đó, tìm châu báu vẫn là câu chuyện huyền bí, ma mị và có sức hấp dẫn, cuốn hút lớp nhỏ chúng tôi, được người già truyền lại.

Đó là những kho báu với tượng thần bằng vàng, mắt ngọc, là nải chuối, trái cau, lá trầu bằng vàng hay đồng đen… được thờ trong các tháp; là những tượng bò vàng hằng đêm đi ăn, để lại những vệt sáng trên sườn núi. Là những linh thiêng đền tháp, gắn với câu chuyện ai lấy gạch đá từ các phế tích về xây nhà, tường rào sẽ bị “ma Hời” bắt, chết “bất đắc kỳ tử” hoặc điên khùng… Giữa những câu chuyện đó, còn có “lệnh” đào phá những đống gạch phế tích, đem về lát đường, làm công trình công cộng của hợp tác xã, hay các công trình phụ của xã viên… như là cách phá bỏ “tàn dư phong kiến”, “mê tín dị đoan” sau ngày giải phóng.

Phần còn lại của Di tích Phật viện Đồng Dương

Còn nhớ, từ năm 1978, người dân Đồng Dương đào được một tượng Phật - người thì nói bằng đồng đen, kẻ đồn thổi lên là vàng; nhưng hiếm ai tận mắt thấy hay sờ mó được. Dân làng đem giấu, mãi đến năm 1981, thông tin bị lộ, chính quyền tỉnh Quảng Nam

-Đà Nẵng (cũ) ban hành quyết định thu hồi, ngành chức năng về tận nơi yêu cầu người dân giao nộp, đưa bức tượng - có tên gọi là Bồ Tát Tara, sau này được công nhận là một trong 30 bảo vật quốc gia đầu tiên - về Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng lưu giữ.

Trước đó, hai trì vật (linh khí) là đóa sen và con ốc trên tay tượng Phật đã bị người dân bẻ lấy, giao cho chính quyền xã cất giữ như báu vật linh thiêng; cho đến hơn 45 năm sau mới “châu về hợp phố”.

Nhân đây cũng nói ngay  rằng, lâu nay vẫn mặc định Đồng Dương với Phật viện và đền thờ Laksmindra Lokesvara - kể cả khi làm hồ sơ đề nghị công nhận di tích quốc gia đặc biệt, được công nhận vào ngày 22/12/2016, chứ ít nhắc đến kinh thành Indrapura. Dù trong tài liệu nghiên cứu và ký ức của người dân, những cái tên gắn liền với kinh thành này vẫn còn đó, như gò Gạch, rừng Thành, ao Vuông… Chính vì vậy, việc khôi phục kinh thành Indrapura cả về nghiên cứu và bảo tồn là một điều đáng lưu tâm.

Lật từng trang lịch sử, trong cuốn biên sử công phu Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 - 1777 - Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam của người con xứ Quảng - Phan Khoang, ở chương “Người Chàm lập quốc”, có nhắc đến sự kiện: “Năm 875 thì một triều vua mới lên làm vua ở phía Bắc tại Indrapura (Đồng Dương). Ấy là  đệ lục vương triều (875 - 991). Đồng thời, sử Trung Quốc cũng đổi gọi là nước Chiêm Thành. Vua sáng lập triều đại mới là Indravarman II, do Sri Vikrantavarman chỉ định kế nghiệp”.

Còn trong “Đại Việt sử ký toàn thư” cũng ghi lại cuộc chinh phạt đầu tiên của vua Lê Đại Hành vào kinh đô Indrapura: “Nhâm Ngọ, năm thứ ba - 982 (…) Vua thân đi đánh Chiêm Thành thắng được. Trước đây  vua sai Từ Mục và Ngô Tử Canh sang sứ Chiêm Thành, bị họ bắt giữ. Vua giận, mới đóng thuyền chiến, sửa binh khí, tự làm tướng đi đánh, chém được Phê Mi Thuế tại trận; Chiêm Thành thua to; bắt sống được binh sĩ không biết bao nhiêu mà kể; bắt được kỹ nữ trong cung trăm người và một thầy tăng người Thiên Trúc; lấy các đồ quý mang về, thu được vàng bạc của báu kể hàng vạn; san phẳng thành trì, phá hủy tôn miếu, vừa một năm thì trở về Kinh sư”.

Sau thất bại ấy, kinh đô Indrapura vốn từng “được trang hoàng lộng lẫy như thành đô của thần Indra trên thiên giới” theo như bi ký Chămpa còn ghi bị “san phẳng”. Đến gần cuối thế kỷ X, vua Chămpa thiên đô về Trà Bàn (Vijaya), miền đất phía Đông tỉnh Gia Lai ngày nay. Kinh thành Indrapura ở Đồng Dương chìm vào quên lãng và trở thành bình địa đến hôm nay…

* Trà Kiệu - kinh đô “khởi nguyên” của Lâm Ấp - Chămpa?

Ký ức tuổi thơ ở miền kinh thành Indrapura và Phật viện trên cánh đồng thiêng, cùng những câu chuyện kỳ bí về Chămpa đã dẫn dắt tôi tìm về Trà Kiệu - vùng đất linh thiêng được xem là kinh đô khởi nguyên của Lâm Ấp. Đến miền đất mà di tích cổ xưa đã chìm theo năm tháng, chỉ có thể lật giở những dòng ghi chép từ khảo cổ của các nhà nghiên cứu từng mê đắm nền văn minh rực rỡ, để làm cuộc đối thoại với quá khứ…

Qua nghiên cứu khảo cổ, văn bản, bi ký từ nhiều nguồn sử liệu, các ý kiến cả trong và ngoài nước đều nhận định rằng, người Chămpa can trường, hiếu chiến, thường xuyên “gây sự” với các quốc gia láng giềng, không chịu thần phục các triều đại phong kiến Trung Hoa nên bị tấn công từ nhiều phía, nhằm ngăn họa từ xa. Từ nhà Tống, nhà Tùy Trung Hoa đến Java, Mã Lai, Khmer và Đại Việt. Sau mỗi lần bị chinh phạt, bờ cõi Chămpa lại bị mất dần đi, hoặc thành trì bị cướp bóc, tàn phá, thiêu rụi...

Trong dòng chảy lịch sử đầy bí ẩn của Chămpa, một kinh đô gây nhiều tranh cãi của giới nghiên cứu trong và ngoài nước, đó là kinh đô thời Lâm Ấp được cho là khởi nguyên của vương quốc Chămpa. Trong khi Yamagata Mariko (Đại học Rikkyo, Nhật Bản) cho rằng: “Di tích thành Trà Kiệu thường được coi là kinh đô của nước Lâm Ấp, tức là Chămpa về sau”; thì nhà nghiên cứu Võ Văn Thắng (Hội Khoa học Lịch sử thành phố Đà Nẵng) thận trọng hơn khi nhìn nhận: “Trong các nghiên cứu chuyên sâu và có tính phản biện, chúng ta đọc thấy những ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược, về một số vấn đề liên quan đến kinh thành ở Trà Kiệu”. Một số ý kiến khác lại cho rằng kinh đô của Lâm Ấp là Kandapurpura, tọa lạc phía Bắc đèo Hải Vân, vùng đất thuộc thành phố Huế hiện nay, với tên gọi là Phật Thệ, Điển Xung… theo ghi chép của sử sách Trung Hoa.

Tuy nhiên, sau khi phân tích nhiều nguồn dữ liệu, nhà nghiên cứu Võ Văn Thắng nhận định: “Kết quả khai quật khảo cổ cho thấy vùng Trà Kiệu có những dấu tích của một kinh thành, phù hợp với ghi chép trong thư tịch Trung Hoa về kinh đô Lâm Ấp. Đối chiếu sử liệu về phạm vi các quận, huyện thời nhà Hán cũng cho thấy Tượng Lâm là huyện cực Nam của quận Nhật Nam, trùng hợp với khu vực Nam đèo Hải Vân. Do vậy có thể suy luận hợp lý rằng những phát hiện khảo cổ ở Trà Kiệu chính là dấu tích kinh đô của nước Lâm Ấp, do người địa phương chống nhà Hán, tự xưng vương lập quốc ở huyện Tượng Lâm từ cuối thế kỷ II”.

Qua nghiên cứu tư liệu và nhiều lần tham gia khảo sát thực địa, nhà khảo cổ Yamagata Mariko cho rằng, hiện tại không còn kiến trúc Chămpa nào trong Trà Kiệu và tàn tích duy nhất có thể nhìn thấy trên mặt đất là bức thành phía Nam và phía Đông. Mặc dù ngày nay khó để nhận ra trên mặt đất, nhưng xét đến vị trí của các thành phía Bắc và phía Tây, được kiến trúc sư kiêm nhà khảo cổ học người Pháp Jean-Yves Pierre Alfred Claeys xác nhận vào năm 1927-1928, chiều dài của di tích Trà Kiệu từ Đông sang Tây là khoảng 1.500m, chiều rộng từ Bắc xuống Nam là khoảng 550m.

Các hiện vật được phát hiện ở Thành Nam bao gồm gạch, ngói, trong đó có đầu ngói hình mặt người và đồ gốm, có niên đại từ thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ VI hoặc thứ VII. Qua đó nhà nghiên cứu Lâm Thị Mỹ Dung nhận định rằng Thành Nam đã được xây dựng lần đầu tiên vào khoảng cuối thế kỷ thứ III và đầu thế kỷ IV… Có thể kết cấu Thành Đông Trà Kiệu đã được xây dựng vào khoảng nửa sau thế kỷ thứ III đến thứ IV, sau đó việc xây dựng để mở rộng thành được thực hiện khoảng từ thế kỷ thứ V đến đầu thế kỷ thứ VI.

“Khi kết hợp với những mô tả trong sách lịch sử Trung Quốc, có lý khi cho rằng công trình xây dựng đầu tiên đã diễn ra vào nửa đầu thế kỷ thứ IV. Theo đó, Lâm Ấp thường đánh nhau với Giao Châu của Trung Quốc: năm 358-359, Thứ sử Ôn Bảo Chí của Đông Tấn, năm 446, Thứ sử Đàn Hòa Chí của nhà Lưu Tống, và năm 605 tướng Lưu Phương nhà Tùy đã xâm chiếm Lâm Ấp và kinh đô đã sụp đổ. Việc xây dựng, sửa chữa, gia cố và mở rộng các thành Trà Kiệu được cho là có ý nghĩa chuẩn bị và phòng thủ trước các lực lượng viễn chinh từ Trung Quốc”, Yamagata Mariko nhìn nhận.

Trải qua cuộc tàn phá của quân viễn chinh Trung Hoa do Lưu Phương chỉ huy vào năm 605, nhà Tùy chia Lâm Ấp thành ba châu và đặt trị sở tại Simhapura. Người Lâm Ấp - Chămpa thất thế chạy về Nam, nhưng sau đó tiếp tục tấn công ra Bắc, giành lại đất đai của mình…

Sau khi xây dựng kinh thành Simhapura, một trung tâm tôn  giáo lớn cũng được hình thành,  cách  15 km về phía Tây, trong thung lũng hẹp mà nay gọi là Mỹ Sơn. Theo các bi ký còn lưu lại, khu di tích thờ các vị thần Ấn Độ giáo với tên gọi thánh đô Srisanabhadresvara được bắt đầu xây dựng tại đây từ thế kỷ thứ IV, với chất liệu ban đầu bằng gỗ lá, sau bị hỏa hoạn thì được xây dựng lại bằng gạch đá.

Nhà nghiên cứu Trần Kỳ Phương cho rằng, bi ký xưa  nhất  ở  Thánh địa Mỹ Sơn được tạo dựng bởi đức vua Bhadravaman hay Phạm Hồ Đạt trong sử Đại Việt, Fan Huda trong sử liệu Trung Hoa, vào những năm 380- 413 Bi ký ghi nhận rằng ngài đã cho xây dựng một ngôi đền để thờ thần Bhadresvara và xác nhận việc tuyển chọn một vùng đất thiêng để tạo dựng thánh địa hoàng gia.

Ngôi đền đầu tiên của đức vua Bhadravaman được dựng bằng gỗ, thờ linga hoàng gia của thần Bhadresvara Đấng bảo hộ Vương quốc Chămpa. Đây được xem là một trong những ngôi đền thờ Siva - Bhadresvara sớm nhất ở Đông Nam Á, có niên đại cuối thế kỷ IV hoặc đầu thế kỷ V.

 Thung lũng Mỹ Sơn là nơi xây dựng đền thờ, hành lễ, thờ tự; đồng thời cũng là nơi xác nhận với thần linh về sự trị vì của các đời vua Chămpa. Đây còn là nơi đền tháp được dựng lên để tưởng nhớ những chiến thắng và những cuộc chinh phục vĩ đại, đồng thời cũng là nơi các vị vua sau khi chết, linh hồn họ được quy tụ với các bậc thánh thần của đạo  Hindu, đặc biệt là thần Siva - được coi là thần sáng lập ra Vương quốc Chămpa. Dưới vương triều Bhadravarman, thánh đô Srisanabhadresvara trở thành trung tâm tôn giáo, tín ngưỡng quan trọng của vương quốc Chămpa. Việc hoàng gia Chămpa chọn lựa thung lũng Mỹ Sơn làm thánh địa bởi nơi đây hội tụ đủ các dấu hiệu phong thủy phù hợp với yêu cầu của Ấn Độ giáo, để thực hành tư tưởng thoát tục ở nơi yên tĩnh, trở thành nơi hành hương cho tín đồ. Theo nhà nghiên cứu Chămpa Ngô Văn Doanh, trong thần thoại Ấn Độ giáo, thần Siva có những nét riêng và khá tách biệt. Thần sống trên núi Kailasa ở tít phía Bắc, cách xa những nơi đông đúc. Tại nơi xa vắng đó, như một vị thánh khổ hạnh, thần chìm trong trầm tư và siêu thoát. Hình tượng Siva “yogin hoàn hảo” là biểu hiện rõ ràng nhất về sức mạnh của tu hành khổ hạnh.

Không chỉ có vậy, lần giở những phân tích của nhà nghiên  cứu  Trần Kỳ Phương, có thể thấy rõ việc chọn thung lũng Mỹ Sơn làm thánh đô Srisanabhadresvara, đáp ứng yêu cầu về tín ngưỡng Ấn Độ giáo, với Núi thiêng (tượng trưng cho thần Siva - là núi Mỹ Sơn/ Răng Mèo); Sông thiêng (tượng trưng cho thần Ganga, vợ thần Siva - là sông Thu Bồn); Cửa biển thiêng (Cửa Đại/ Hội An); Thành phố thiêng, Hoàng thành (là Shimhapura - Trà Kiệu) và Đất thiêng (Thánh địa Mỹ Sơn).

Theo nghiên cứu của Trần Kỳ Phương, có thể vào thời kỳ hưng thịnh của Phật giáo tại vương quốc Chămpa từ thế kỷ VIII đến IX, bên cạnh Phật viện Laksmindra Lokesvara tại Đồng Dương, việc thờ tự các vị thần Bà-la- môn giáo tại Srisanabhadresvara cũng được hoàng tộc Chămpa chăm sóc chu đáo, vì vậy nhiều công trình đền thờ mang phong cách Đồng Dương đã được xây dựng tại thánh địa này.

Bằng chứng khảo cổ cho thấy, hoa văn trang trí trên tường tháp cũng như hình thức kiến trúc của ngôi đền (B4 - ký hiệu do các nhà khảo cổ người Pháp mô tả đầu thế kỷ XX) thấp mập, cho thấy nó thuộc phong cách Đồng Dương, được dựng vào thế kỷ IX. Tại Mỹ Sơn, đây là một trong hai công trình kiến trúc mang phong cách Đồng Dương.

Trở ngược về  Đồng  Dương, năm 875, khi xác lập kinh đô mới Indrapura, vua Indravarman II đã cho xây dựng một tu viện Phật giáo và đền thờ Laksmindra Lokesvara. Trung tâm vương quyền nằm ở phía Đông, còn trung tâm thần quyền là Phật viện và đền thờ nằm ở phía Tây, chỉ cách 1km, chứ không còn khoảng cách xa đến 15km như kinh thành Simhapura với Thánh đô Srisanabhadresvara trước đó. Các trung tâm này đều được bố trí công trình phòng vệ. Liệu đây có phải là bài học được rút ra trong việc xây dựng thành lũy gần và kiên cố để bảo vệ trung tâm tôn giáo, thờ tự của vương triều Chămpa?

Một điều đặc biệt là khi các kinh thành Simhapura và Indrapura bị quân Trung Hoa và Đại Việt tàn phá, cướp bóc, đốt cháy và san phẳng nhằm ngăn chặn sự trỗi dậy của vương triều Chămpa, thì kể cả sau khi tấn công cướp lại đất đai, người Chăm cũng không trở về kinh đô cũ. Trong khi đó, thánh đô Srisanabhadresvara, Phật viện và đền thờ Laksmindra Lokesvara không bị tổn hại nhiều, tiếp tục được tôn tạo và mở rộng cho đến thế kỷ XV. Những công trình tôn giáo nguy nga, tráng lệ này dường như chỉ bị tàn phá bởi sự khắc nghiệt của khí hậu nhiệt đới miền Trung cũng như thời gian và chiến tranh sau này... Những bằng chứng khảo cổ đầu thế kỷ XX của người Pháp đã cho thấy điều đó. Liệu rằng, niềm tin tôn giáo và nền tảng văn hóa tinh thần luôn có những giá trị bền vững và bất khả xâm phạm?

* Kết nối con đường di sản Chămpa

Với niềm tin ấy, đi qua miền thánh đô và kinh đô xưa của Chămpa, mỗi bước chân không chỉ gần gũi quá khứ mà còn khai mở những bài học, những ý tưởng về việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa - lịch sử lâu đời, phong phú và đa dạng của xứ Quảng. Đặc biệt, việc Quảng Nam và Đà Nẵng “về chung một nhà” sẽ tạo thêm nhiều thuận lợi cho sứ mệnh cao cả này.

Những việc đã, đang và sẽ làm, đó là tiếp tục khai quật khảo cổ, nghiên cứu và đầu tư tôn tạo, tu bổ các di sản, di tích và công trình liên quan đến di sản văn hóa vật thể trên đất Quảng; trong đó có Di tích Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Đồng Dương, Khương Mỹ, Chiên Đàn, Bằng An, Phong Lệ… cùng một công trình có giá trị đặc biệt quan trọng là Bảo tàng Điêu khắc Chăm. Mỗi thực thể đó vừa là minh chứng, vừa là tiếng nói vang vọng từ quá khứ tới hiện tại và tương lai. Đi cùng với đó, là khôi phục một cách khoa học, bài bản giá trị phi vật thể của di sản văn hóa Chămpa…, trong đó quan trọng là làm sao có sự tham gia nhiệt tình, đầy trách nhiệm của cộng đồng cư dân bản địa.

Thế nhưng, đứng trước thực thể của các di tích, nhất là với kinh thành Simhapura ở Trà Kiệu và kinh thành Indrapura cùng Phật viện và đền thờ Laksmindra Lokesvara ở Đồng Dương, tôi bỗng chạnh lòng khi nghĩ đến công cuộc trùng tu, bảo tồn… Các di sản vật thể như kiến trúc đền tháp, thành quách giờ đã trở thành bình địa hoặc bị chôn sâu dưới rừng cây, công trình xây dựng, giao thông… nên rất khó khôi phục. Yếu tố quan trọng nhất là vật liệu và cách xây dựng tháp bằng gạch vồ của người Chăm vẫn còn là “ẩn số”. Chưa kể đến kỹ thuật và mỹ thuật điêu khắc trên gạch của các công trình tôn giáo này. Đây là những thách thức lớn, mà các đền tháp nhỏ hơn của Chămpa, vừa được trùng tu gần đây trên đất Quảng, đã minh chứng rõ ràng. Dẫu rằng, có những hiện vật và tài liệu được các nhà khảo cổ người Pháp lưu lại từ đầu thế kỷ XX làm căn cứ, nhưng kỹ thuật để trùng tu, khôi phục… như nguyên trạng là bài toán vô cùng khó khăn hiện nay.

Và trong tôi bỗng nảy ra ý tưởng, đó là kết nối một “con đường di sản Chămpa” trên xứ Quảng một cách liền lạc, khoa học và hấp dẫn du khách cũng như người dân trong quá trình tìm về miền văn hóa - lịch sử phong phú và độc đáo này. Để thu hút du khách, một “vạch nối” từ Bảo tàng Điêu khắc Chăm, qua di tích Phong Lệ, vào Trà Kiệu, Mỹ Sơn, Đồng Dương rồi vòng về Hội An - Cửa Đại, cửa biển thiêng của các kinh thành và công trình tôn giáo của người Chăm trên xứ Quảng - cần được hình thành rõ nét hơn, không chỉ theo thời gian và kiến thức lịch sử - văn hóa, mà còn là gạch nối giao thông thuận tiện.

Trên hành trình đó, bên cạnh những di tích kiến trúc và tôn giáo, cần làm sống lại những câu chuyện một thời, như kỹ thuật của người Chăm về xây dựng gạch, đóng thuyền, công trình thủy lợi; về những giếng vuông Chăm qua hàng ngàn năm vẫn trong xanh và đầy nước; kể cả những huyền tích như chuyện quả bưởi thả ở Tháp Giếng của đền thờ Laksmindra Lokesvara sẽ trôi ngầm qua hàng trăm mét để xuất hiện ở Ao Vuông trong kinh thành Indrapura; những “tượng bò vàng” đi ăn trong núi sáng lên từng đêm như trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn còn ghi: “Xứ Quảng Nam, các núi Trà Nô, Trà Tế nguồn Thu Bồn, huyện Duy Xuyên, phủ Thăng Hoa sản vàng, năm xưa khí vàng phát mạnh thường đi một lối ngoằn ngoèo từ trong đất, khi bốc lên cũng có lúc đi thẳng, có lúc đi ngang suốt qua núi khác...”.

Có như vậy, khi đặt chân qua miền đất thiêng này, mỗi người cảm nhận rõ nét hơn giá trị và cảm xúc trước một nền văn minh rực rỡ, góp phần làm nên giá trị văn hóa đa dạng của xứ Quảng hôm nay.

Con đường phía trước còn nhiều gian nan, nhưng để làm sống lại miền di sản thiêng liêng ấy trong bước tiến của Đà Nẵng về tương lai, không thể bỏ ngỏ…

N.T