Nhà thơ Thu Bồn - Thấm đẫm hồn thơ xứ Quảng

07.12.2025
Nguyễn Kim Huy

Nhà thơ Thu Bồn - Thấm đẫm hồn thơ xứ Quảng

Nhà thơ Thu Bồn - người con của xứ Quảng, đã để lại một di sản thi ca thấm đẫm tình yêu quê hương. Từ “Bài ca chim Chơ Rao” đến “99 bài thơ tình nhờ em đặt tên”, thơ ông, như  dòng sông Thu Bồn, chảy mải miết giữa những bờ bãi ký ức, giữa nỗi đau chiến tranh và khát vọng yêu thương,  vừa dịu dàng vừa mãnh liệt...

Nhà thơ Thu Bồn tên thật Hà Đức Trọng (1935-2003), sinh tại xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay là phường An Thắng, thành phố Đà Nẵng). Ông từng được trao tặng Giải thưởng Văn học Quốc tế Bông Sen của Hội Nhà văn Á Phi 1973, Giải thưởng Nhà nước về Văn học, nghệ thuật đợt I năm 2001, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học, nghệ thuật năm 2017; là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ nhà thơ chống Mỹ. Sự nghiệp văn học của ông, với những đóng góp nổi bật, đã ghi một dấu ấn đậm đà và góp phần làm nên tầm vóc rạng rỡ có sức sống lâu bền của thời đại thi ca chống Mỹ.

Văn thơ của Thu Bồn khá phong phú, gồm nhiều thể loại. Riêng về các đầu sách xuất bản ông đã có đến 5 tập thơ, 12 trường ca, 11 tập văn xuôi (truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết...). Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, thơ mới là nơi thể hiện rõ nhất, tập trung nhất tâm hồn, bản lĩnh và phẩm chất nghệ thuật của ông.

Và đọc thơ, trường ca Thu Bồn từ Bài ca chim Chơ rao đến 99 bài thơ tình nhờ em đặt tên, có thể nhận ra ở nhà thơ lớn này một tâm hồn thơ trữ tình đậm đà chất Quảng.

Dẫu đi nhiều nơi, gắn bó với nhiều vùng miền trên đất nước, trước sau gì Thu Bồn vẫn là một nhà thơ nặng lòng với quê hương xứ Quảng. Chính bút danh mang tên dòng sông quê hương đã là một minh chứng hiển hiện và sinh động cho tấm lòng nhà thơ luôn hướng về đất mẹ với ý nguyện sẽ xứng đáng với mảnh đất sinh thành bằng cả cuộc đời, sống, chiến đấu và sáng tạo nghệ thuật của mình. Cảm hứng về quê hương là một trong những cảm hứng chủ đạo và xuyên suốt trong văn thơ Thu Bồn, ghi một dấu ấn rõ rệt trong các sáng tác của ông và đã góp phần quan trọng trong việc hình thành nên một diện mạo phong cách Thu Bồn.

Ngay trong tập thơ đầu tay mở đầu đời thơ Thu Bồn (Tre xanh, 1970), nhà thơ đã dành trọn vẹn bài thơ mở đầu cho quê hương, với một tình yêu sâu nặng đến trào nước mắt trong ngày trở lại, trong nụ hôn thiêng liêng thành kính của người con dâng mẹ quê hương, hình ảnh mở đầu và kết lại cuối bài. Bài thơ thể hiện một tình yêu quê hương xúc động và đầy ấn tượng theo cách riêng của Thu Bồn:

Tôi cúi xuống hôn mảnh đất

                                    quê hương

Như hôn người yêu sau ngày

                                     xa cách

Tôi không khóc nhưng vẫn trào

nước mắt Con đã về đây với mẹ - Mẹ quê hương

                               (Hôn mảnh đất quê hương)

Tình yêu quê hương sâu nặng đó cùng hình ảnh xứ Quảng đã theo suốt và đậm đà trong mỗi trang thơ Thu Bồn. Cảnh vật quê hương và con người xứ Quảng trong thơ ông bao giờ cũng hiện lên sinh động với những nét riêng rất Quảng Nam, có thể nhận ra rõ ràng với những đặc trưng cho sắc thái, tính cách đất và người Quảng Nam.

Xứ Quảng là dải đất hẹp như một con đường nằm dọc khúc ruột miền Trung:

Em đã về chưa mảnh đất hẹp

                                         vô cùng

hẹp như thể một con đường qua lại

                                         (Qua quê mẹ)

Quê hương là nơi con sông Thu Bồn  mềm  mại  êm  trôi  trong  tiếng thoi đưa nhịp nhàng ven bờ Tư Phú:

Con sông nào mềm mại êm trôi

Sông Thu Bồn duyên dáng

                                     của quê tôi

Tiếng thoi dệt trên bờ Tư - phú

Dải lụa vàng phơi trên cát vàng tơ

(Mùa xuân về quê mẹ)

Là những vùng đất thân yêu:

Thăng - triều, Chợ Được hai

                                      mùa cấy

Lúa nhịp đường cong rộn bước vui”

(Hành quân đến Ba - kỳ)...

Dải đất hẹp ấy đã sản sinh ra nhiều sản vật đặc biệt nức tiếng gần xa: hạt gạo Điện Bàn trắng thơm, nước mắm Nam Ô đậm đà:

Hạt gạo trắng từ vụ mùa anh Trỗi

Cá mắm Nam - Ô từ những thuyền

                                Lê Độ

Nằm chật bến, chật bờ

 

Theo vai người, theo những

                             cánh tay chèo rẽ nước

(Khói Thu Bồn)

Rồi  chè Tiên  Phước  thơm  ngon, khoai  Chợ  Được  sắn  Hiền  Lương bở bùi, thơm (dứa) Chiên Đàn, mía đường Quế Sơn ngọt lịm: “Đâu chè Tiên Phước thơm ngào ngạt/ Khoai bùi Chợ Được sắn Hiền - lương/ ... Chiên Đàn đã chín mùa thơm ngọt/ Đã tím mùa sim, mía Quế Sơn” (Hành quân đến Ba - kỳ)... Hương vị sản vật cây trái xứ Quảng cũng rất đặc trưng, nồng đậm mùi rơm rạ khoai bắp: “Những gốc bắp thơm mùi chè hai/ Những gốc rạ thơm mùi cốm rang/ Những gốc cỏ thơm hương nếp mới” (Khói Thu Bồn).

Xứ Quảng thơ mộng, người Quảng chịu thương chịu khó, nhưng mảnh đất chưa mưa đà thấm ấy cũng rất khắc nghiệt, luôn gánh chịu bão lũ và những cơn nắng hạn khô khốc nối nhau tàn phá mùa màng. Xứ Quảng triền miên trong cơn khát đầy nghịch lý giữa biển nước khi mà:

quê hương tôi biển nhiều hơn nước

giọt tận trời cao giọt tận đất sâu

biển đã thổi cồn cào cơn khát

giọt đầu nguồn trong - mắt em đâu?

 

nước đã tràn bờ nước đã về khơi

dòng sông suốt đời không đuổi kịp

những ghềnh thác thét gào

khủng khiếp

khúc ngàn năm mây vẫn thấp

                                    ngang trời

(Qua quê mẹ)

Nơi  miền  đất  khát  ấy,  nhà  thơ thương người mẹ đã vắt hết thời con

gái trong bao mùa khô hạn:

hạn hán về lật úp cả dòng sông

mẹ đã vắt hết thời con gái

cây cải khú nằm đau trong đáy vại

thương cộng rơm gầy mẹ nhặt giữa

                                  đêm đông

                                        (Phía đầu nguồn)

Xót người em tả tơi trong những cơn lốc xoáy bão dữ:

vòng ôm em xoáy tròn cơn lốc

buồm căng rồi gió lại xoáy tả tơi

bão vừa tan lại tính chuyện

                                      dong khơi

tóc em đen cánh buồm thổi ngược

                                     (Sau bão)

Cái khát hành hạ người đang sống, cái khát còn dằn vặt đến cả người đã khuất tưởng đã được yên nghỉ dưới mồ sâu:

có đêm tung súng lên trời hát

hỏa pháo soi từng cổ họng khô

em có đem về theo giọt nước

rưới cho bạn khát dưới nấm mồ

(Hành phương Nam)

Sinh ra trên một mảnh đất triền miên những cơn khát như vậy, nên suốt một đời thơ, Thu Bồn luôn bị ám ảnh bởi niềm khát khao sông nước, khao khát những cơn mưa:

em là ong mà cũng là hoa

sau một dải bờ xanh nghe em hát

ngọn lửa đã đốt anh thành cơn khát

và tình em dâng hiến hóa cơn mưa

                                       (Vực sâu)

Miền đất cằn khô nghiệt ngã ấy lại là miền đất trung dũng kiên cường, đi đầu trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc. Đất anh hùng, nhưng những đau thương, những hy sinh mất mát của người dân cũng không thể nào kể xiết: “Thuốc độc quân thù rải chết những đường thôn/ Rụng lá lìa cành cây cỏ héo hon/ Đâu rồi em màu xanh cơ cực...” (Vườn xanh); “ Tây xua rồi Mỹ đốt nhà” (Mẹ), làng quê yên lành biến thành “Cả một vùng trại giam ngột ngạt/ Ấp chiến lược thép gai đâm tiếng hát” (Em hát bằng lòng mẹ Việt Nam).

Bao nhiêu người đã ngã xuống vì đạn bom, vì cuộc chiến một mất một còn, những con người vốn rất gần gũi, thân thương:

Cô gái đêm qua dệt lụa may cờ

Hôm nay thắp hương trên mồ anh

                                        Trần Đại

...Mùa xuân dâng hoa trên mộ

                                     anh hùng

...Bóng ai kìa mái tóc rối tung

Có phải chị Vân đêm hành hình

lưng trời những ngôi sao đều khóc

...Khói lửa đạn bom ứa máu

                                       chân trời

(Mùa xuân về quê mẹ)

Trong nỗi đau thương lớn lao của quê hương, bản thân nhà thơ còn gánh chịu những nỗi đau riêng to lớn. Nơi quê hương nhà thơ có người cha bị tù đày tra tấn: “Cha ơi!/ Đứa nào đã cùm cha hai mươi năm trong bóng tối/ Đứa nào bắt cha quỳ sám hối giữa trưa hè...” (Vĩnh biệt). Có người mẹ “...bần cùng khốn khổ/ Hết Tây rồi đến Mỹ cùm tra/ Tây xua rồi Mỹ đốt nhà/ Hai mươi năm nhớ bóng cha đi đày” (Mẹ). Có người em gái: “Em tôi giặc bắt đày Côn - đảo”(Gửi người em nơi Côn đảo). Có đứa con: “Chiếc nôi con nằm đã rách toạc giữa đạn bom” (Qua thác lũ)...

Vượt qua đau thương, cuộc chiến đấu anh hùng của người đất Quảng đã góp phần làm nên những câu thơ hào hùng, vạm vỡ của Thu Bồn. Nhưng tự trong lòng nhà thơ không bao giờ nguôi nỗi nhức buốt về những gì chiến tranh đã gây ra trên quê hương và luôn chứa đựng những khát vọng hòa bình, yên lành lớn lao:

Tôi nằm đó với trái tim đau nhức

Vết xe tăng giặc Mỹ xéo từng bầy

Đâu dấu chân trâu của thời thơ ấu

Những lâu đài thuở nhỏ tôi xây?

(Cho tôi về lại)

Quê  hương  xứ  Quảng  là  nơi  có nhiều  kỷ  niệm  tuổi  thơ  sâu  đậm của nhà thơ. Đấy là “Nơi tôi moi hòn đất bên bờ ao vàng sẫm/ Chấm từng hạt lúa rơi vương vãi trên đường/ Và chiếc cầu ao giúp ta ngồi giặt/ Bụi quê hương trên áo vải đầm sương”. Là nơi làng quê thân yêu có hàng tre râm mát, có cánh đồng vàng gốc rạ, có đàn trâu “nằm trên cỏ xanh gặm ướt chiều hôm”, và có “Người bạn gái có hàm răng như hoa bưởi/ Tóc xanh mềm giờ xa vắng nơi đâu?” (Cho tôi về lại). Là nơi:

Tiếng mẹ ru ngọt lịm cả nắng chiều

Và gió bên đồng lại thổi hiu hiu

Ru bé ngủ say nồng trong tã lót

(Em hát bằng lòng mẹ Việt Nam)

Quê  hương  là  nơi  mảnh  vườn xanh đầy kỷ niệm ngày nào:

...Em ra vườn hái ngay trái ớt

Trái ớt cay hai đứa hít hà

Những bữa ăn hạt muối, trái cà

Em la đắng ngồi nhai cơm lạt

Cơm cõng sắn hai đứa ăn chung bát

Chiếu rách chung nằm soi mặt

chung gương...

(Vườn xanh)

Những hình ảnh thanh bình, thơ mộng  của  một  quê  hương  trong những ngày hòa bình hiếm hoi  ấy đã trở thành thường trực và luôn da diết trong tâm hồn nhà thơ, tự bản thân nó đã mang một ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong sự hoài mong, khao khát cuộc sống hòa bình và yên lành đối với tất cả mọi người, nhất là những người dân quê yêu lao động, chuộng bình yên và một đời gắn bó với đồng quê.

Trong thơ Thu Bồn, tình yêu quê hương được thể hiện một cách trực diện, có thể bắt gặp ngay từ nhan đề những tập thơ và trường ca: Tre xanh, Mặt đất không quên, Quê hương mặt trời vàng, Tôi nhớ mưa nguồn... đến từng bài thơ cụ thể mà tên bài đã bao trùm một ý nghĩa cụ thể xác thực về hình ảnh quê hương: Hôn mảnh đất quê hương, Mẹ, Sông Yên, Hành quân đến Ba-kỳ, Mặc áo rừng dương, Mùa xuân về quê mẹ, Trèo dãy Ngọc-linh, Cho tôi về lại, Vườn xanh, Con suối nhỏ, Khói Thu Bồn, Tre xanh, Quê hương, Tiên sa, Vườn chanh, Tiếng hát mảnh vườn, Đà Nẵng gọi ta, Qua quê mẹ, Qua sông Thu Bồn...

Tình cảm đằm thắm với quê hương thường được nhà thơ biểu hiện qua hai hình ảnh vừa cụ thể vừa có tính biểu tượng cho những gì thiêng liêng, thân yêu, sâu nặng và êm đềm nhất của con người: MẸ và EM:

Mẹ ơi mẹ không quên làng cũ

Nơi bờ tre ấp ủ tình thương

Con đi từ lúc còn sương

Nghe con gà gáy quê hương

                                 sáng rồi 

(Mẹ)

 qua đồng bằng giọng hát thân quen

quen như thể không bao giờ lạ được

quen như thể cơn mưa nào

                                     cũng ướt

tóc em giờ nắng đã khô chưa?

(Qua quê mẹ)

Tiếng gọi giải phóng quê hương đang còn rên xiết dưới gót giày quân xâm lược là tiếng gọi thiêng liêng tha thiết nhất:

Đà Nẵng gọi ta như người mẹ

                                     gọi con

Như người yêu gọi người yêu

                                  xa cách...

(Đà Nẵng gọi ta)

Sâu  thẳm  và  có  lẽ  thường  trực trong tâm hồn Thu Bồn đến mức trở

thành nỗi ám ảnh, là một tình yêu quê hương luôn hiện diện trong khoảng cách, trong sự qua đi, vuột khỏi tầm tay với không thể nào níu giữ được, tình yêu cụ thể với quê hương qua mẹ em ấy! Nghĩa là, nó chỉ có thể là một tình yêu trong hướng vọng, trong tâm tưởng, và chính vì thế mà nó càng khắc khoải, càng cháy bỏng. Nó là sự... chảy vòng quanh, quẩn quanh, dùng dằng trong tình yêu khôn nguôi của một con sông:

Con sông bên bồi lo cho bên lở

anh đứng nơi này rát mặt với

                                                   thời gian

qua quê mẹ không ghé về thăm mẹ

sông cứ chảy vòng quanh sông

                           bỗng hóa sông Hàn...

(Qua quê mẹ)

Thu Bồn viết nhiều về sự qua đi ấy, như để giải tỏa một nỗi niềm khắc khoải khôn nguôi về tình yêu của một đứa con đi xa, không thể nào gần gũi với quê hương:

qua rồi Tí Sé Dùi Chiêng

dòng sông nức nở ngả nghiêng

                                     đôi bờ

... chia tay em với nước ròng

anh về gạn đục khơi trong gởi nguồn

(Ngược dòng)

dòng sông rộng quá nên lai láng

\nhịp cầu thường tiễn ta đi xa

hỡi con ngựa chiến tuôn về biển

bất kham dừng lại hóa phù sa

(Qua sông Thu Bồn)

Trong sự xa cách, chia ly, Thu Bồn hay nhắc đến những dòng sông quê hương vừa cụ thể vừa xa xăm buốt nhức trong nghĩa ẩn dụ của những dòng chảy cồn cào, cuộn xiết, đã trôi đi là vĩnh viễn không về của đời người, của cuộc sống, của hội ngộ và ly biệt... Đến những ngày cuối đời, hình ảnh mẹ quê hương vẫn tha thiết, nức nở như vậy trong lòng nhà thơ, như khát vọng được bình yên, được an ủi trong vòng tay mẹ:

đo lòng mình bên gành trắng

                                  Hải Vân

đứa con xa về đó nghỉ chân

mẹ tóc bạc- con tin rằng có mẹ

chữa tan nát trái tim con đau xé

(Bài thơ giã biệt)

Tình yêu quê hương vẫn vẹn nguyên như ngày nào nhà thơ trở về trong chiến tranh, chung thủy, ngọt lành tuôn trào cho những cơn khát lòng người:

Lòng ta là một cánh đồng khô khát

Mà quê hương dòng nước ngọt

                                     tuôn trào

(Hôn mảnh đất quê hương)

Và, trước sau gì, đấy vẫn là một tình yêu quê hương được thể hiện theo kiểu Thu Bồn, luôn tràn đầy sức sống dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, như dòng sông Thu tràn đầy hơi thở bên những nương dâu thân thiết: “Sông Thu Bồn ơi! Ta nghe người đương thở/ Vỗ triền miên gội tóc những nương dâu” (Hôn mảnh đất quê hương). Một quê hương “vừa dịu mềm vừa rắn rỏi đến uy nghiêm” (Khói Thu Bồn). Một quê hương hùng vĩ, bất khuất, kiên cường: “Từ mặt đất tối đen sẽ nảy/ Những lưỡi gươm xanh chém lóe nắng trời” (Lửa thép Xê-tră)...

N.K.H