Nhớ Đà Nẵng

07.12.2025
Nguyễn Thị Bội Nhiên

Nhớ Đà Nẵng

Với tôi, Đà Nẵng là một tình yêu không hẹn trước. Mảnh đất ấy là nơi Sơn ở, nơi anh từng âu yếm nắm tay tôi, đưa tôi đi qua những con đường có lá rơi cùng màu với nắng, cùng màu với những giọt mưa trong mỗi lần gặp gỡ rồi chia tay. Giờ đây, trong nỗi nhớ day dứt về những tháng ngày không bao giờ trở lại, tôi bỗng nhận ra: trong một cơn mưa hay tia nắng nào đó đã đi qua thành phố mang tên Đà Nẵng vẫn còn nguyên vẹn niềm tương tư của trái tim tôi.

Trên xôn xao sóng nước sông Hàn trong buổi đầu tiên gặp gỡ, có những chuyến phà chở đầy nắng, gió, chan hòa tiếng nói, tiếng cười. Tôi theo Sơn về hai bờ sông trong niềm vui gặp lại, trong vòng tay đón chào nồng ấm. Tâm trí tôi căng đầy những hình ảnh, âm thanh của một cuộc sống đang dào dạt quanh đây. Giữa một phút lặng yên, tôi khẽ níu lấy cơn gió mang mùi vị biển khơi ùa vào thành phố, để cảm nhận thoáng bâng khuâng vừa dấy lên trong lòng, ước muốn được sống cuộc đời mình giữa cuộc đời những con người nơi này.

Sơn kể bằng giọng trầm sâu, rằng thành phố nằm bên tả ngạn sông Hàn, đối diện bán đảo Tiên Sa, vốn là dải đất do biển rút cạn mà thành. Giờ đây, giữa nhịp sống ngày càng nhộn nhịp, náo nức và rực rỡ sắc màu, trong tâm tưởng của người khoáng đạt như Sơn vẫn thường ẩn giấu nguyên vẹn khuôn mặt thực của Đà Nẵng trong thời điểm xa xưa ấy: “Đà Nẵng cát là cát vẫn luôn còn đó... và người ta đi qua đấy bị chôn lún xuống cát đến nửa giò; suốt chiều dài của đụn cát ấy, nung nấu dưới ánh mặt trời, một thành phố nhỏ bắt đầu khai sinh”.

Thả bước trên con đường mềm mại trải dài bên bờ sông Hàn, tôi nhìn ngắm những điều đang diễn ra xung quanh, cảm nhận sự êm đềm mà náo nức của đất trời Đà Nẵng. Qua vai Sơn, hình ảnh phố cảng lấp lánh trong nắng, bình dị mà chan hòa, như quấn quýt lấy trái tim mỏng manh của tôi trong niềm hạnh phúc thuần khiết “Hôn một lần ở đó, một đời vang thủy triều” (Chế Lan Viên).

Bên những tâm hồn yêu thành phố Hiện Cảng1 này, tôi học cách nhận ra nơi cửa sông tiếp giáp biển và nhìn từ ngoài khơi vào để thấy núi, hiểu rõ từ nhiều ngàn năm biển đã hóa nên cồn là cội nguồn của Hải Châu, biết đến hai dòng thủy đạo chảy từ núi Phước Tường ra biển. Trên mái chèo thời gian vẫn bền bỉ quẫy nước ở Thanh Khê, Thạc Gián,... diện mạo của một thành phố hiện đại, khang trang rạng rỡ trong làn ánh nắng chan hòa, đầm ấm. Trong cái nhìn không xiết ngạc nhiên của tôi, màu nắng ấy phủ đều khắp một vùng Sơn Trà trẻ trung với những công trình mới, tỏa vàng lên niềm kiêu hãnh của chiếc cầu sông Hàn, thêm tươi sáng cho những con đường thênh thang nối hướng này ngả nọ, rộn ràng những bước chân quen lạ và làm dịu dàng vào âm sắc mộc mạc, chân chất.

Hôm nay, nhìn những chiếc thuyền đang lướt nhanh trên sông nước thanh bình rồi nhìn rộng ra dáng núi Tiên Sa xanh muôn thuở, tôi mới hiểu vì sao mình đã từng ấp ủ ước vọng một đời được sống trên đất này kể từ lúc ở bên Sơn, tôi nghe được nhịp mùa đi thong thả trong mưa nắng chan hòa, trong hương đất hương cây lan tỏa nhè nhẹ và ngấm sâu vào từng viên gạch lề đường, lặng lẽ tỏa thơm lòng phố, gợi nhớ gợi thương giữa sâu thẳm hồn người.

Trong ánh chiều đang rực lên, tôi nhìn thấy đôi cánh tay trẻ tráng đang gom lưới trên một khoang thuyền bên bờ sông hồn nhiên và ấm áp. Ôm vào lòng hình ảnh chân thực và sinh động đó, tôi đi trên những con đường muôn vẻ mới của thành phố để khám phá phong hóa giàu đẹp mà Đà Nẵng đang xây đắp với biết bao hy vọng và tin tưởng. Trong tình cảm chiêm ngưỡng vóc dáng khỏe mạnh của thành phố bên bờ sóng, một ý nghĩ bất chợt bừng sáng lên trong tôi rằng Đà Nẵng là thành phố của những con đường. Những con đường mới mở, nâng cấp, hoàn thành, đưa thành phố đến ngưỡng cửa của một đô thị hiện đại, như những cánh tay nối dài Đà Nẵng với giấc mơ rộng mở, trang hoàng. Bên những con đường ấy, khu dân cư, trường học, bệnh viện, công viên, khu công nghiệp, trung tâm thương mại, siêu thị… mọc lên san sát,  chuyên chở dòng chảy bất tận của đời sống ngày đêm với bao gương mặt, bao bước chân của những con người mới, đang góp sức kiến tạo diện mạo hôm nay. Với niềm vui đến ngỡ ngàng, tôi đã tiếp cận với thực tế đó khi bâng khuâng đi tìm nơi chốn cất giữ câu hò chan chứa ân tình “Chiều chiều mây phủ Sơn Trà/ Lòng ta thương bạn nước mắt và lộn cơm”.

Bị chinh phục bởi đỉnh núi ẩn mình trong sương trắng phù hư, tôi quyết vượt qua những khúc cua quanh co của đèo. Đi trong làn sương se lạnh để chạm tới Bà Nà, nơi nhu hòa và nhạy cảm nhờ đã hội tụ bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông chỉ trong vòng quay kiên nhẫn của một ngày đêm. Trước vẻ trầm hùng của núi rừng, tâm trí tôi liên tục xáo động bởi những liên tưởng vừa sôi nổi vừa thầm lặng bên thềm các ngôi biệt thự, bên hầm rượu cổ rêu phong chìm sâu trong lau lách, bên những luống địa lan nở rộn rã ven đường, với cảm giác như mình có thể trò chuyện với đại úy Debay1 quanh hiện thực của dự tưởng tốt đẹp mà ông từng gieo trên rặng núi này.

Ở đây, thời gian như dừng lại trên những cành phong lan đang ra chồi nụ, đang khoe với đất trời cái đời sống ngát hương giữa tầng tầng cây lá, trong làn nước mát lành của thác cao và hồ thẳm. Trong một giây phút ngắm trăng, đón gió, tôi nhìn về thành phố Tourane2 trước kia, vốn từng hưng thịnh, giờ đây tiếp tục phát triển theo nhịp chuyển và rung động của nền kinh tế mở, quyện vào một nền văn hóa cởi mở, với nhiều triển vọng rõ rệt.

Nhịp chuyển ấy trao cho người dân Đà Nẵng nhiều cơ hội vui sống, khi những dãy nhà chồ xưa đã trở thành dĩ vãng, nhường chỗ cho bờ Bạch Đằng đông rực rỡ, cảng Tiên Sa, khu công nghiệp Liên Chiểu - Hòa Khánh, khu chế xuất An Đồn… Nền văn hóa mở ấy đặt vào lòng người dân niềm tin yêu sự sống, khi thành phố ngày một gần hơn với cố đô Huế kiêu kỳ, với phố cổ Hội An trầm mặc, và những chân trời văn hóa muôn phương đang theo bước chân du khách vào thành phố.

Những thực tại tốt đẹp ấy làm rưng rưng xúc động một cựu chiến binh Mỹ đứng lặng trong Bảo tàng thành phố, nhìn lại Đà Nẵng của chiến tranh và hòa bình, giữa bóng xanh um của khu vườn cây trái che mát những hình ảnh bom đạn từng tàn phá rừng nhiệt đới, hình ảnh con người quằn quại đau đớn vì vết bỏng napal. Còn tôi, chứng kiến Đà Nẵng ngày càng giàu mạnh, tôi ví von nơi đây như một tế bào đầy sinh lực của Tổ quốc ở vùng duyên hải miền Trung. Lấp lánh trong niềm vui rạo rực và êm đềm khi nhìn đời sống hạnh phúc của người dân là gương mặt giàu ý chí và nghị lực của Ngũ Hành Sơn, Cù Lao Chàm, Hoàng Sa... thân thương.

Tôi lại về với mảnh đất sinh thành Sơn, nơi gần hai mươi năm trước tôi đã từng theo một con đường nhỏ vừa đủ đặt hai bàn chân ngần ngại, trèo núi tìm anh trong âm hưởng của nỗi nhớ ngân vang. Đó là chuyến đi đầu tiên của tôi lên thăm cái làng quê xa xôi ấy của Hòa Vang, và ngay trên một sườn núi của quê nhà, Sơn múc từ một con suối nhỏ trao tôi uống những ngụm nước trong veo, mát lạnh chảy từ rừng ra. Vị ngọt tinh túy ấy lập tức làm dịu cơn khát và còn đọng lại trong máu của tôi đến sau này.

Ngày ấy, một cơn lũ vừa đi qua ngôi làng nhỏ của Sơn, quăng quật những nhà cửa, xóm thôn, bờ bãi, làm rơi nước mắt trên gương mặt những người mẹ nghèo, trong khi các má, các cô cố vun trồng lúa, ngô, khoai, mía sau cơn giận dữ của thiên nhiên. Con sông làng đã xanh trở lại với giai điệu ngoan hiền, nhưng những mảnh vườn quê vẫn bời bời gian khó và lòng người dân ở đây lại ngổn ngang nghĩ đến những việc cần phải làm để xanh lại những ruộng những vườn. Trong cái đêm ở lại nơi miền quê mà bỗng chốc tôi đã yêu như máu thịt ấy, lòng tôi đã dâng lên giấc mơ về ánh điện thật là sáng trong ngôi nhà của Sơn và của những người xung quanh.

Hôm nay, tôi lại đến Nam Ô, giữa những làn gió nồng nàn, ngược dòng Trường Định xanh êm, bồn chồn gặp dòng Cu Đê trong đến đáy, tôi may mắn có thêm một lần được ở bên má của Sơn trong ngôi nhà đơn sơ và thanh bần. Con đường nhỏ năm nào đưa tôi lên núi tìm Sơn nay đã là một con đường rộng quanh co uốn lượn. Hình ảnh kiêu hùng của những dãy núi chập chùng vây quanh thôn xóm, con sông chảy qua làng vẫn trong xanh, phản chiếu triệu triệu tia nắng nhấp nhô trên mặt sóng, đẹp đến mức mãi về sau, trong huyết quản của mình, tôi vẫn nghe tiếng vỗ rì rào của dòng sông ấy.

Giữa quãng sông rộng, một chiếc cầu đang được thi công trong tiếng ghe máy xuôi ngược, tiếng mái chèo gõ cạp thuyền để dồn cá, tiếng nói cười của những người thợ rộn vang trên mặt sông và dưới cánh cò trắng thanh thản chao liệng giữa khung trời yên ả. Nhìn ánh lửa hàn nối những nhịp cầu, lòng người mặc sức mơ tưởng đến những đám rước dâu về hai bờ sông quê, đi giữa những ruộng lúa vườn lạc hồn nhiên xanh tốt. Trong ánh mắt dịu hiền đưa tiễn của má, của Sơn, tôi lên chiếc thuyền máy chở đầy người và sản vật để về với Hải Châu, An Hải Bắc, Nại Hiên Đông… Tạm biệt dòng sông, tầm mắt của tôi dừng lại trên những chú tôm bình yên bơi lội, những chú cá bống hiền lành, những đám rong màu ngọc thạch, những viên sỏi màu trắng và bóng của đường dây  điện 500 kV lay động dưới mặt nước. Lắng nghe tiếng nước sông sôi reo dưới mui thuyền đang rẽ sóng hòa quyện giọng hò khoan xứ Quảng vang vọng đây đó, lòng tôi thấm thía niềm biết ơn những con thuyền đã đưa Sơn ra thành phố, đến những trường học, vào với cuộc đời nhiều khát vọng để góp sức trẻ, tâm trẻ của mình vào những cái vươn mình mới của Đà Nẵng hôm qua, hôm nay và mai sau.

Đây đó có tiếng lá khẽ khàng rơi trên mặt đất đang phập phồng thở như lời chia tay và hẹn ước giữa ngày và đêm. Có người nào đó mở nhẹ cánh cửa của ngôi nhà im ắng ở đầu ngõ phố với nụ cười kín đáo lấp lóa như muốn gửi thiên nhiên đang còn trầm tĩnh lời cảm ơn về một niềm vui trọn vẹn của một người vừa trở về sau lần đi dạo thâu đêm với Non Nước, Mỹ Khê, Bãi Bụt… đã gặp tri kỷ trong biển, trong cát hiền hòa, trong sạch, đáng tin và  dịu dàng. Bất giác, tôi dõi mắt theo hướng của ngôi sao trên đỉnh Bà Nà, vẫn lấp lánh giữa những tia nắng đầu tiên, chọc thủng những lớp mây đang bay lượn trên nền trời sớm. Cùng với nhiều người khác, tôi hiểu Đà Nẵng đang vào ngày mới. Và, giữa muôn vàn âm thanh huyền nhiệm của thành phố trẻ, tôi nghe có tiếng thì thầm đằm thắm rằng, sẽ mãi còn trong mỗi bước đi của thời gian hư thực của cuộc đời tôi là nỗi nhớ niềm thương về Đà Nẵng đã hóa thiên thu, in sâu giữa cội lòng…

N.T.B.N

1 Thành phố Hiện Cảng: Người Trung Quốc gọi Đà Nẵng là Hiện Cảng. Thời xưa, tàu thuyền Trung Quốc đi Đà Nẵng thường lấy hòn Sơn Trà làm mốc định vị phương hướng. Hòn Sơn Trà có hình dáng giống con hến nên người Trung Quốc đã gọi nơi đây là “Hiện Cảng”, có nghĩa là “Bến Hến”. Về sau một số người không hiểu rõ nguồn gốc của tên gọi này, thấy xung quanh Đà Nẵng có nhiều núi non bao bọc nên  đã thay chữ “hiện” 蜆 có nghĩa là “con hến” bằng chữ “hiện” 峴 là từ dùng để chỉ núi nhỏ mà cao (Nguồn:vi.wikipedia.org).

2. Đại úy Debay: Năm 1901, quan toàn quyền Đông Dương Paul Doumer muốn tìm một nơi tương tự Đà Lạt để xây dựng khu nghỉ mát, nghỉ dưỡng, chữa bệnh cho các quan chức, binh lính và sĩ quan người Pháp. Nhiệm vụ được giao cho Debay, một Đại úy thủy quân lục chiến, trực tiếp chỉ huy tìm kiếm (Nguồn:vi.wikorg)

3. Thành phố Tourane: Từ năm 1888 cho đến hết thời Pháp thuộc, Tourane là tên chính thức của Đà Nẵng. Có nhiều cách giải thích khác nhau về nguồn gốc của từ Tourane. Thứ nhất đó là lối nói trại từ chữ Châu Ranh (chỉ ranh giới Việt Nam - Chiêm Thành). Ý kiến thứ hai cho rằng nó bắt nguồn từ một làng có tên là Thạc Gián bị viết nhầm là Tu Gián. Ý kiến thứ ba giải thích rằng Tourane chỉ địa danh của một nơi vốn có một cái tháp (tour) trên cửa Hàn (Nguồn:vi. wikorg)