Lặng lẽ gánh chè đêm

07.12.2025
Lam Khuê

Lặng lẽ gánh chè đêm

Tôi sinh ra tại một làng quê nhỏ cách phố cổ Hội An chưa đầy một giờ xe máy. Hội An trong ký ức tuổi thơ tôi không chỉ là những ngõ nhỏ treo đầy đèn lồng đỏ, mái ngói rêu nghiêng soi bóng xuống sông Hoài, mà còn là những điều bé nhỏ, lặng thầm níu chân người đi. Ở đó, tôi thương nhất những gánh chè đêm, không bảng hiệu, không tiếng rao, chỉ đôi quang gánh và nồi chè nóng, như chứa cả hồn cốt của phố Hội.

Khi đêm buông, phố cổ như trút bỏ sự náo nhiệt ban ngày để hóa thành một bản nhạc trầm ngâm. Không rộn ràng, không chói lòa ánh sáng, chỉ có tiếng gió len qua mái ngói, tiếng bước chân khẽ chạm lên nền đá và đâu đó, mùi chè nóng quyện trong sương như lời thì thầm của phố gửi về ký ức xa xăm.

Ký ức đầu tiên của tôi về gánh chè đêm là một tối giáp Tết cách đây đã hơn hai mươi năm. Má dắt tôi đi chợ, đường phố lấm tấm ánh đèn vàng, nền gạch trơn bóng nước, đứa trẻ nhà quê vừa ngỡ ngàng vừa háo hức.  Dưới mái hiên nhỏ bên chùa Ông là gánh chè của một cụ bà tóc bạc. Hơi ấm, hương thơm từ nồi chè tỏa ra khiến tôi bất giác níu tay má: “Má ơi, con thèm chè”. Và một chén chè nóng hổi được múc ra ấm lòng tôi đến tận bây giờ.

Những gánh chè đêm ở Hội An thường chọn cho mình một chỗ khiêm nhường: góc vỉa hè, bậc tam cấp cũ, hay một khoảng sân nhỏ gần chợ. Người bán thường là những người  đàn  bà tóc đã điểm sương, lưng còng vì gánh gồng, tay múc chè chậm rãi như múc cả một đời nhẫn nại. Họ không rao, không mời, chẳng cần đèn màu, chỉ lặng lẽ, cần mẫn mà đi qua tháng, qua năm.

Chè Hội An không cầu kỳ nhưng lại tinh tế trong từng hương vị. Chè đậu xanh mịn như nhung, từng  hạt đậu được đãi sạch, ninh nhuyễn đến mức tan ngay trên đầu lưỡi, mang vị ngọt dịu và mùi thơm thanh mát. Chè đậu ván bùi béo, hạt đậu tròn mẩy ăn kèm chút cốt dừa sẽ thấy cái béo len lỏi, quyện cùng vị bùi rất riêng. Chè thưng, thứ chè nhiều màu từ đậu đỏ, khoai, bột báng… kết dính bằng nước cốt dừa thơm ngậy, khiến mỗi muỗng đưa lên miệng là một lần nếm đủ cung bậc. Chè đậu đen ngọt thanh, hạt đậu bóng mượt, mềm mà không nát, nước chè óng ánh màu cánh gián, chan lên lớp đá bào mát lạnh cho ngày hè hay ăn nóng vào đêm đông đều khiến người ta muốn múc thêm chén nữa. Dĩ nhiên, không thể thiếu chè bắp Cẩm Nam, thứ quà quê mà từng hạt bắp dẻo mềm như gom trọn nắng và phù sa của sông Thu Bồn.

Nhưng đặc biệt nhất là chè mè đen, hay người phố Hội vẫn quen gọi là Xí mà. Nồi chè ấy sánh đặc, đen óng như mảnh trời đêm rót vào chén sành. Hạt mè rang thơm ngào ngạt, xay nhuyễn cùng bột sắn dây, đường phèn, tạo nên vị vừa ngọt dịu, vừa ngậy ngầm. Ăn một muỗng, hơi nóng nhẹ nhàng thấm từ đầu lưỡi, lan dần xuống cổ họng, rồi tỏa ấm khắp lồng ngực như thể trong hạt mè có cất giữ chút nắng ngày xưa. Giữa đêm se lạnh, chỉ cần ăn một chén Xí mà, lữ khách như quên hết sương đêm, chỉ còn lại hương thơm, vị ngọt và cảm giác ấm áp trong lòng.

Có lần, tôi ngồi bên gánh chè khi phố đã vắng thưa người. Bà cụ thong thả múc chè, chẳng hề vội vã như muốn giữ lại chút yên bình. Một đôi tình nhân ngồi bên, chàng trai thổi cho cô gái chén chè nóng, cô cười, má ửng hồng dưới ánh đèn vàng. Một cụ ông ngồi thu mình nơi góc ghế thấp, chậm rãi đưa từng muỗng Xí mà lên miệng. Mắt ông dõi đâu đó vào khoảng tối giữa phố như đang tìm lại bóng hình của những năm tháng đã xa. Thi thoảng, ông khẽ thở dài, tiếng thở nhẹ như gió lùa qua mái hiên xưa, mang theo chút se sắt của những câu chuyện chỉ còn lại trong lòng. Còn tôi, ngồi lặng im như muốn níu giữ từng hơi ấm đang tan dần trong chén chè. Đêm Hội An bỗng nhiên hiền như mắt mẹ, êm như một khúc ru, khiến tôi như đứa trẻ say ngủ, quên cả đường về.

Người ta bảo Hội An đẹp vì cổ kính. Nhưng với tôi, Hội An đẹp nhất khi khuya về, khi khách đã thưa, chỉ còn ánh đèn nhỏ hắt lên đôi quang gánh, làm sáng lên những vết nhọc nhằn mà ấm áp của lòng người. Tôi lớn lên, rời quê rồi lại trở về. Phố Hội đã khác xưa, nhà gỗ thành quán cà phê, cửa tiệm xưa thành homestay. Nhưng lạ thay, những gánh chè đêm vẫn còn đó, vẫn chiếc nồi cũ sứt quai tỏa hương thơm ngọt ngào, vẫn mấy chiếc ghế con để ai ghé ngang có thể ngồi xuống và quên đi mỏi mệt của một ngày. Có lần, tôi hỏi bà cụ: “Bà không buồn khi bán giữa đêm khuya sao?”. Bà cười: “Có chi mô buồn con. Đêm có trăng, có gió, có người tới ăn, nói đôi câu là vui rồi”. Câu nói nhẹ tênh nhưng tôi phải mất nhiều năm mới hiểu. Hóa ra, niềm vui của bà chỉ đơn giản là có người ghé lại, cùng sẻ chia vài câu chuyện bên nồi chè thơm ngát.

Bây giờ, giữa phố Hội rực rỡ ánh đèn và dập dìu bước chân du khách, tôi vẫn tìm về góc nhỏ ấy. Nơi có ánh đèn vàng nghiêng nghiêng soi nồi chè bốc khói, có mùi bắp ngọt lẫn trong gió, có tiếng muỗng chạm vào chén sành như nhịp thở đều đặn của một miền ký ức. Tôi sợ một ngày, khi quay lại, sẽ không còn thấy gánh chè đêm nữa. Bởi khi gánh chè không còn, phố sẽ mất đi một phần hồn và ký ức tôi cũng vơi bớt một góc ấm áp. Nhưng tôi tin, hơi ấm ấy vẫn sẽ còn len lỏi trong mùi mè rang, trong vị ngọt thanh của bắp Cẩm Nam và trong những câu chuyện còn dang dở giữa đêm phố Hội...

L.K