Ma nhai Ngũ Hành Sơn - “Di sản trầm tích” độc đáo

Một bản khắc ma nhai ở Ngũ Hành Sơn
Hệ thống bia đá - ma nhai - trong hang động ở danh thắng Ngũ Hành Sơn (phường Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng) là chứng tích đặc biệt của sự giao hòa giữa con người và tự nhiên. Không chỉ là dấu vết của nghệ thuật và tín ngưỡng, ma nhai còn là tư liệu sống phản ánh lịch sử, ngôn ngữ, phong tục, tâm thức, văn hóa của con người qua nhiều thế kỷ. Mỗi nét khắc trên đá là một dấu tích thời gian, lâu dần trở thành lớp trầm tích ký ức của con người, là căn cước nhận diện bản sắc của vùng đất Đà Nẵng. Chính giá trị độc đáo ấy mà UNESCO vinh danh ma nhai Ngũ Hành Sơn là Di sản tư liệu Ký ức thế giới khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Những giá trị độc bản
Ma nhai Ngũ Hành Sơn là tên gọi dành cho 78 văn bản chữ Hán và chữ Nôm được chạm khắc trực tiếp lên các vách đá, hang động trong quần thể danh thắng Ngũ Hành Sơn. Đây là hệ thống văn khắc có quy mô và giá trị đặc biệt hiếm có ở Việt Nam. Các bia ma nhai có niên đại trải dài từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX, phản ánh nhiều lớp lịch sử và văn hóa liên tục hơn 400 năm. Từ những văn bia đầu tiên khắc vào những năm 1600 đến dòng chữ cuối cùng ghi dấu nửa đầu thế kỷ XX, mỗi văn tự đều mang theo câu chuyện của thời đại mình. Chính vì vậy, giới nghiên cứu ví Ma nhai Ngũ Hành Sơn như một “cuốn biên niên sử bằng đá” của vùng đất Đà Nẵng nói riêng và lịch sử văn hóa Việt Nam nói chung.
Về ý nghĩa tư liệu, kho ma nhai này tựa như một thư viện ngoài trời lưu giữ ký ức cha ông. Nội dung khắc trên đá rất đa dạng: từ thơ văn ngợi ca cảnh đẹp, bia ký ghi lại sự kiện lịch sử, câu đối triết lý, cho đến những lời vãn cảnh, kinh kệ Phật giáo… Tác giả của những áng văn khắc ấy cũng phong phú không kém, từ vua quan, những cao tăng Phật giáo, cùng nhiều danh sĩ, tao nhân mặc khách trải qua các thời kỳ. Chính sự đa dạng về nội dung và tác giả khiến ma nhai trở thành nguồn sử liệu quý giá, cung cấp cái nhìn đa chiều về đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của người Việt dưới thời phong kiến. Từ nội dung các ma nhai, có thể tìm hiểu về quá trình giao lưu, tiếp biến kinh tế - văn hóa - xã hội giữa Việt Nam với Trung Hoa, Nhật Bản và các nước lân cận trong khu vực từ thế kỷ XVII trở đi. Nói cách khác, mỗi dòng chữ trên vách đá không chỉ kể câu chuyện của riêng vùng Ngũ Hành Sơn, mà còn phản ánh bối cảnh khu vực rộng lớn thời bấy giờ. Đây cũng chính là lý do khiến UNESCO đánh giá cao và vinh danh ma nhai Ngũ Hành Sơn: di sản tư liệu này mang tầm vóc khu vực, chứa đựng những giá trị độc nhất vô nhị về lịch sử và văn hóa.
Không những thế, ma nhai Ngũ Hành Sơn còn có ý nghĩa đặc biệt đối với chính thành phố Đà Nẵng. Tấm bằng công nhận của UNESCO trao ngày 1/3/2023 đã đánh dấu một mốc son, đưa Đà Nẵng lúc đó lần đầu tiên xuất hiện trên “bản đồ” di sản tư liệu thế giới. Với địa phương, những văn khắc cổ xưa này không chỉ đơn thuần là vật trưng bày phục vụ nghiên cứu, mà còn là niềm tự hào, nguồn cảm hứng để quảng bá văn hóa - lịch sử địa phương đến với du khách muôn phương. Giá trị của ma nhai, vì thế, vượt khỏi phạm vi học thuật để chạm đến trái tim công chúng: đó là giá trị của ký ức dân tộc chồng lớp được trao gửi, lan tỏa từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.
Điều làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của ma nhai Ngũ Hành Sơn nằm ở chính bản thân di sản này là những áng văn được khắc trên chất liệu đá thiên nhiên giữa khung cảnh núi non hùng vĩ. Xét về mặt văn hóa - lịch sử, hệ thống ma nhai phản chiếu bề dày truyền thống tâm linh và học thuật của vùng đất Quảng Nam - Đà Nẵng. Từ thế kỷ XVII, Ngũ Hành Sơn đã là một trung tâm Phật giáo nổi tiếng của Đàng Trong, với hàng chục ngôi chùa, am tự được xây dựng trong các hang động và trên sườn núi. Trước đó, chính nơi đây cũng từng là thánh địa linh thiêng của vương quốc Champa cổ, nơi người Chăm ngưỡng vọng các vị thần linh của họ. Bởi vậy, Ngũ Hành Sơn được xem là vùng đất giao thoa tâm linh, kết nối nhiều lớp văn hóa khác nhau. Những văn bia khắc chữ Hán trên vách đá còn sót lại đến nay chính là minh chứng sống động cho sự tiếp nối và biến chuyển tín ngưỡng qua các thời đại: từ dấu vết của Phật giáo thời chúa Nguyễn thế kỷ XVII cho đến những bài thơ ca ngợi cảnh trí của các nho sĩ thời Nguyễn thế kỷ XIX, rồi cả bài khắc cuối cùng những năm 1960. Tất cả hòa quyện tạo nên một bức tranh lịch sử - văn hóa nhiều màu sắc được “viết” bằng ngôn ngữ trên vách đá.
Về khía cạnh tôn giáo, ma nhai Ngũ Hành Sơn được ví như một bộ sử Phật giáo thu nhỏ của miền Trung Việt Nam. Ngay từ tấm bia cổ xưa nhất (có niên đại khoảng 1631), nội dung văn khắc đã đề cập đến việc hoằng truyền Phật pháp của thiền sư Huệ Đạo Minh tại vùng này. Suốt những thế kỷ sau, rất nhiều văn bia khác tiếp tục ghi dấu sự hưng thịnh của Phật giáo: khi thì là dòng lạc khoản về việc trùng tu tượng Phật, khi lại là bài minh ca tụng công đức Bồ tát Quan Thế Âm, hay những bài kệ thể hiện triết lý vô thường của nhà Phật. Tuy nhiên, ma nhai Ngũ Hành Sơn không chỉ có dấu ấn Phật giáo. Các vua quan triều Nguyễn khi ghé thăm nơi đây cũng để lại nhiều bài thơ Nôm và Hán ca ngợi non nước hữu tình, thể hiện tình yêu thiên nhiên, lòng tự hào dân tộc và cả cảm thức tâm linh trước cảnh đẹp kỳ vĩ. Chẳng hạn, vua Minh Mạng sau ba lần ngự du Ngũ Hành Sơn đã đích thân ngự bút lưu lại bút tích “Huyền Không Động” và “Linh Nham Động” ngay cửa hai hang động lớn, vừa để đánh dấu chủ quyền văn hóa, vừa như lời tán dương vẻ đẹp đất nước. Các danh thần, thi sĩ đi theo vua cũng góp phần tạo nên kho tàng thơ văn trên vách đá, với những tác phẩm nổi tiếng như “Vọng Ngũ Hành Sơn”, “Du Ngũ Hành Sơn”… Tất cả cho thấy giá trị nghệ thuật và giá trị tinh thần sâu sắc của hệ thống ma nhai: đó là sự kết hợp tuyệt vời giữa thi ca và thư pháp, giữa niềm cảm hứng thiêng liêng và rung động thẩm mỹ.
Nhìn gần hơn, mỗi bia ma nhai là một tác phẩm nghệ thuật chạm khắc đầy tinh xảo. Những nét chữ Hán, Nôm được khắc nổi hoặc âm bản trên mặt đá cứng, đòi hỏi kỹ thuật điêu luyện của thợ đá lành nghề. Vùng Non Nước (ngay dưới chân Ngũ Hành Sơn) vốn nổi danh với nghề điêu khắc đá truyền thống; chính bàn tay tài hoa của các nghệ nhân địa phương xưa đã giúp biến những bài thơ, bài văn của tao nhân mặc khách thành hình hài vĩnh cửu trên đá. Có những bài thơ được khắc bằng lối chữ thảo vô cùng bay bướm, mềm mại, thể hiện cái thần của nét chữ trên nền đá xám. Lại có những bia đá khắc chạm hoa văn trang trí tinh xảo viền quanh chữ viết, mà giới nghiên cứu xác định mang phong cách mỹ thuật đặc trưng thời chúa Nguyễn (thế kỷ XVII). Thậm chí, có tấm bia do chính vua Minh Mạng ngự chế, chữ chân khắc đều tăm tắp đẹp như in.
Tất cả những yếu tố đó tạo nên tính độc đáo có một không hai của ma nhai Ngũ Hành Sơn: vừa là di sản ngôn ngữ - văn chương, vừa là di sản mỹ thuật gắn liền với nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước. Đến thăm các động Hoa Nghiêm, Huyền Không… ngày nay, du khách không khỏi trầm trồ khi thấy trên vách núi cheo leo là những bài thơ cổ được khắc khéo léo, dòng nọ cách dòng kia đều đặn và mềm mại như một bức tranh thư pháp. Đá đã hóa thành thơ, thành họa, lưu giữ biết bao cảm xúc và tâm nguyện của tiền nhân giữa chốn núi non biển trời.
Ký ức cộng đồng và bản sắc văn hóa Việt
Không chỉ là di sản văn chương nghệ thuật, hệ thống ma nhai Ngũ Hành Sơn còn mang một ý nghĩa thiêng liêng: đó là nơi ký ức của cộng đồng được bảo tồn và tái sinh qua thời gian. Khái niệm “ký ức văn hóa” từng được nhà nghiên cứu Jan Assmann đưa ra để nói về những ký ức chung của một cộng đồng, được lưu giữ qua các phương tiện vật chất và tinh thần bền vững. Ở Ngũ Hành Sơn, những vách đá sừng sững khắc đầy chữ chính là “bản ghi nhớ” của người Việt vùng đất này qua nhiều thế hệ.
Mỗi văn bia ma nhai có thể xem như một mảnh ghép ký ức. Ghép tất cả lại, ta có bức tranh toàn cảnh về đời sống tinh thần phong phú của cộng đồng. Chẳng hạn, qua ma nhai có thể biết được Phật giáo Tịnh Độ Tông đã bén rễ ở Đà Nẵng từ rất sớm, được các chúa Nguyễn bảo trợ thế nào. Cũng có thể thấy hình ảnh vua quan triều Nguyễn gần gũi với dân chúng khi ngâm thơ xướng họa giữa chốn thiên nhiên, khác hẳn vẻ uy nghiêm thường thấy trên ngai vàng. Rồi hình ảnh các nhà sư, đạo sĩ để lại bút tích khi du ngoạn qua đây, thể hiện sự gắn kết giữa người tu hành với non nước quê hương. Cũng có cả dấu ấn của những vị khách phương xa: thời mở cửa giao thương, thương nhân Nhật Bản, Trung Hoa… từng dừng chân vãng cảnh và chắc hẳn không khỏi xúc động trước thắng tích này. Tất cả những điều đó, sử sách chính thống có thể không nhắc đến chi tiết, nhưng lại hiện diện sinh động trong những dòng chữ trên vách đá. Nhờ ma nhai, hậu thế nghe được tiếng vọng của quá khứ qua lời kể mộc mạc của bao con người cụ thể, chứ không chỉ qua lời các sử gia cung đình.
Mã văn hóa tạo nên bản sắc của ma nhai thể hiện ở chỗ chúng mở ra một lối diễn ngôn dân gian, bản địa, và phi tập trung. Trong đó, mỗi con người bình thường, dù không phải hoàng thân, đại quan thì vẫn có thể “ghi dấu” bản thể mình trong đá, lưu lại tiếng nói riêng mà không cần phải đi qua thiết chế quyền lực. Hành động khắc đá ở đây có thể được nhìn nhận như một nghi thức chuyển hóa bản ngã (cái tôi) thành ký ức của cộng đồng, giúp con người bình thường trở thành chủ thể văn hóa; đồng thời mở rộng biên giới của lịch sử, vốn thường bị bó hẹp bởi sử quan chính trị. Sự “viết sử bằng đá” ở đây là một hình thức ghi nhớ lâu dài, độc lập với triều đại để bản thân cá nhân hoặc cộng đồng nhỏ không bị hòa tan trong sự lãng quên.
Ngày nay, khi đến thăm Ngũ Hành Sơn, người dân địa phương lẫn du khách đều có thể tận mắt chiêm ngưỡng những thông điệp mà tổ tiên gửi gắm qua từng nét khắc. Các hướng dẫn viên du lịch say sưa kể lại truyền thuyết, tích xưa gắn với từng bia đá. Những câu chuyện ấy chính là ký ức cộng đồng được “kích hoạt” trong đời sống hiện đại. Thế hệ hôm nay, qua việc lắng nghe và tìm hiểu ma nhai, thêm hiểu về cội nguồn văn hóa, từ đó bồi đắp tình yêu và niềm tự hào dân tộc. Có thể nói, hệ thống văn khắc cổ xưa này đang âm thầm thực hiện sứ mệnh “kết nối quá khứ với hiện tại”, giữ cho mạch nguồn ký ức Việt Nam chảy mãi. Giữa nhịp sống hiện đại hối hả, những dòng chữ tĩnh lặng trên đá vẫn ngày ngày nhắc chúng ta nhớ về một truyền thống văn hiến lâu đời, về những giá trị tinh thần bền vững của cộng đồng.
Hơn thế nữa, ma nhai Ngũ Hành Sơn còn góp phần quan trọng trong việc xác lập và khẳng định bản sắc văn hóa Việt Nam trước bạn bè quốc tế. Việc UNESCO ghi danh di sản này không chỉ dựa trên giá trị lịch sử nghệ thuật, mà còn vì ma nhai thể hiện một phương thức lưu truyền ký ức độc đáo của người Việt. Thông qua di sản, thế giới có cơ hội hiểu hơn về tâm hồn người Việt: ưa thơ ca, trọng tâm linh, gắn bó với thiên nhiên và cộng đồng. Đó chính là bản sắc đã hun đúc nên những vần thơ trên vách đá, và cũng chính bản sắc ấy đang được giới thiệu ra toàn cầu. Trong thời đại mà toàn cầu hóa có thể làm lu mờ bản sắc riêng, những di sản như ma nhai đóng vai trò như “mỏ neo ký ức” giữ cho chúng ta không quên mình là ai, mình đến từ đâu.
* Sức sống bền bỉ trong không gian số
Giữa thời hiện đại đầy ắp công nghệ và thông tin số, có lẽ không ít người tự hỏi: những dòng chữ cổ khắc trên đá kia liệu còn ý nghĩa gì đối với cuộc sống hôm nay? Câu trả lời nằm ở chính cảm xúc của mỗi người khi đứng trước bia ma nhai Ngũ Hành Sơn. Sẽ cảm nhận được sợi dây liên kết vô hình với cha ông, khi đọc những vần thơ họ viết về quê hương từ mấy trăm năm trước và nhận ra tình yêu đất nước của họ cũng nồng nàn như chúng ta bây giờ. Sẽ thấy lòng mình lắng lại trước những triết lý nhân sinh được gửi gắm bằng chữ Nho trên vách đá, để rồi chợt nhận ra giá trị của sự tĩnh tâm giữa cuộc sống xô bồ. Và trên hết, tự hào biết bao khi nghĩ rằng dân tộc mình có một di sản thật độc đáo: biết lưu giữ ký ức và cái đẹp ngay trong lòng thiên nhiên.
Những bia ma nhai tưởng như lặng câm suốt hàng thế kỷ, hóa ra vẫn thì thầm trò chuyện với chúng ta hôm nay. Chúng kể về quá khứ để ta hiểu hiện tại, chúng truyền cảm hứng để ta biết trân trọng và gìn giữ văn hóa dân tộc. Trong dòng khách thập phương đổ về Ngũ Hành Sơn thời gian gần đây, nhiều bạn trẻ háo hức đi tìm từng bài thơ cổ trên vách đá, rồi thích thú chụp ảnh, chia sẻ câu chuyện của bia ma nhai lên mạng xã hội. Di sản tưởng chừng khô khan đã “sống lại” một cách tự nhiên trong đời sống hiện đại như thế. Ở các buổi sinh hoạt văn hóa địa phương, hay sinh hoạt học thuật, người ta nghe thiền sư; những người am hiểu Hán Nôm ngâm nga đôi câu thơ xưa khắc trên đá; những đặc san Phật giáo kế thừa truyền thống văn chương từ ma nhai của người xưa như đặc san Diệu Âm. Rõ ràng, ma nhai vẫn đang làm đẹp cho đời sống tinh thần hôm nay, âm thầm mà mạnh mẽ.
Có thể nói, ma nhai Ngũ Hành Sơn chính là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa con người với thiên nhiên, giữa Việt Nam với thế giới. Di sản ấy dạy chúng ta rằng: ký ức không chỉ nằm trên trang sách hay trong viện bảo tàng, mà còn hiển hiện quanh ta, trong từng phiến đá, ngọn núi quen thuộc. Chỉ cần chúng ta biết lắng nghe và trân quý, ký ức sẽ trở thành nguồn sức mạnh tinh thần to lớn. Ma nhai Ngũ Hành Sơn đã, đang và sẽ tiếp tục truyền cho thế hệ sau niềm tự hào về văn hóa cha ông, khơi dậy tình yêu di sản và ý thức bảo tồn bản sắc dân tộc. Giữa dòng chảy hiện đại hóa, những nét chữ trên vách đá vẫn vẹn nguyên giá trị, như lời nhắc nhở rằng cội nguồn dân tộc luôn là nền tảng vững chắc để chúng ta vươn tới tương lai.
* *
*
Ma nhai không chỉ là những khối đá mang ký tự chữ Hán Nôm, mà nó còn là một hệ thống ký ức tích hợp vừa vật thể mang tính biểu tượng của ngôn ngữ vừa mang tính không gian thiêng mang tính cá nhân và cộng đồng. Và quan trọng hơn, ma nhai ở Ngũ Hành Sơn thể hiện một hình thức ký ức khác biệt so với các di sản ký ức khác ở Việt Nam và trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Ma nhai ở đây là văn bản “mở”, hiện diện như một ký ức sống ngoài không gian bảo tàng, nó nằm giữa thiên nhiên, đá núi, sông biển và hang động; tất cả gợi nên một ký ức gắn với trải nghiệm thân thể, cảm xúc và tín ngưỡng, tâm linh và trở thành điểm tham quan thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Ma nhai không chỉ là “di sản trầm tích” mà còn là lời nhắn gửi với mai sau: Con người luôn khát vọng để lại dấu vết quá khứ qua văn hóa nhưng không phải bằng sự thống trị, mà bằng những dòng thơ dung dị, những lời khấn chân thành hay những vết đá trầm mặc giữa thiên nhiên bất biến.
B.T.K.P
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Assmann, J. Communicative and Cultural Memory. Trong: Erll
& A. Nünning (chủ biên), Cultural Memory Studies. An International and Interdisciplinary Handbook, Berlin - New York, 2008, tr. 109-118.
- Nhiều tác giả, (2025), Kỷ yếu Tọa đàm khoa học “Ảnh hưởng của Phật giáo trong di sản tư liệu văn bia Ma nhai tại Danh thắng Ngũ Hành Sơn”, Đà Nẵng.