Vườn lạ chợt thấy quen

05.04.2024
Nguyễn Nhã Tiên

Vườn lạ chợt thấy quen

Chân dung nhà thơ Ý Nhi

Mỗi gay cấn mỗi xót thương/Âm thầm vàng đá phi thường thủy chung

Đáng lẽ ra khi bình giá về thơ của một người thì không nên ngẫu hứng phụ họa thơ của bất kỳ ai, cho dù đó là thơ của cố thi sĩ Bùi Giáng viết tặng cho nhà thơ Ý Nhi. Hay gọi một cách đầy đủ hơn như lúc còn sinh thời Bùi thi sĩ vẫn thường gọi nhà thơ Ý Nhi là: “Ý Nhi nương tử”. Nhưng, như đề bài “Vườn lạ chợt thấy quen”, tôi chợt thấy khu vườn gần gũi tươi xanh như mùa xuân quê nhà. Cụ thể hơn nữa là như mẹ như chị - những tình yêu hằng cửu đã hòa tan vào vô thức của tôi. Nên âu đấy cũng là phản xạ dây chuyền, hiệu ứng của một thể trạng tâm lý tình cảm hoan lạc say sưa, đã thành men thành khói hơn là lý tính tưởng minh, nhằm để thực hiện một phép so sánh nào đó. Có vẻ như tôi lặp lại nhận định của nhiều người khác chăng? Một thẩm giá mà giờ đây đã thành tên gọi, khi nghĩ về thơ Ý Nhi, người ta dễ dàng liên tưởng đến hình ảnh “Người đàn bà ngồi đan” trong thường nghiệm. Một nhân vật trữ tình trong thế giới thường nhật với bao công việc, như người ta thường dùng chất liệu ấy xưa nay đã thành nếp của một phụ nữ Á Đông. Giữa chiều lạnh/ Một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ/ Dưới chân chị/ Cuộn len như quả cầu xanh/ Đang lăn những vòng chậm rãi.

Nhưng tôi không gọi “Người đàn bà ngồi đan” theo một tiêu chuẩn thẩm mỹ nào hết. Hình tượng đó có thể trên núi cao, có thể giữa một khu vườn mùa xuân hoài cảm, hoặc ngồi mòn nhẵn trên bậu cửa mồ côi... Một hình tượng mà tưởng chừng như nhắm mắt lại là có thể chạm một ánh nhìn quen. Nó vừa rất chi hiện hữu nhưng cũng vừa đượm màu siêu hình; một hình ảnh bình dị được sinh nở ra từ mọi trí tưởng.

Giữa chiều xanh

một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ

Ai đã từng trong đời ta như thế. Mẹ, chị, người yêu? Những bóng dáng xa thẳm một quê nhà đã bị thời gian tước đoạt. Cũng có thể từ lời thơ hay một câu hát đã tự bao giờ sinh nở một tượng đài huyền thoại, ví như “nàng vọng phu” đã tạc tượng vào đỉnh núi chon von một lời nguyền cho tình yêu. Vâng, chỉ là một hình tượng nhỏ nhoi giản dị và đơn sơ giữa bao la đất trời, giữa mênh mông cõi người; nhưng lại có thể lấp vào vô vàn nỗi niềm trống vắng mỗi khi sự cô đơn lên tiếng, và đấy chính là sự sống, sức sống trường cửu của nghệ thuật. Tôi từng có duyên được nhiều lần chuyện trò với nhà thơ Ý Nhi. Cũng chỉ là chuyện đời thường thôi, nhưng tiếng nói thường như rút ruột mà ra của chị nhân hậu quá. Tôi nhớ một câu nói vui của chị mà tôi đã thuộc lòng nó như một định nghĩa mới về thơ: “Thơ chỉ là những mái hiên thôi”. Chả phải lý luận gì cho cao siêu huyễn hoặc. Có lẽ vì thế mà thơ chị đích thực là những “mái hiên” tiềm ẩn sự độ lượng chở che cho những tâm hồn cút côi không nơi trú ngụ chăng.

Nếu tôi nhớ không lầm thì trên cái xứ đất lãng mạn “chưa mưa đà thấm” này, lớp nhà thơ nữ đất Quảng xuất hiện vào những tháng năm đất nước còn chia đôi chỉ độc nhất mỗi Ý Nhi.  Trước chị khá lâu có đến ba chục năm, còn có một Hằng Phương nữ sĩ. Và sau chị cũng dễ chừng phải mười lăm - hai mươi năm trở lại đây mới thấy một lớp trẻ những nhà thơ nữ trên vùng đất này. Nếu quan niệm rằng: Nghệ thuật chỉ là những câu thơ, chính tâm hồn kia mới là thi sĩ”, thì có lẽ tôi đã gặp Ý Nhi thi sĩ trước khi đọc được những tập thơ của chị. Nhưng cơ hội được gần gũi làm việc với chị Ý Nhi nhiều nhất  đấy là những tháng năm chúng tôi được tỉnh Quảng Nam mời thành lập một ê-kíp để thực hiện một công trình văn học khá qui mô, mang tên Trăm năm thơ đất Quảng. Độ khoảng vài năm thì xong công trình ấy. Sách Trăm năm thơ Đất Quảng mỗi cuốn dày hơn cả ngàn trang đã được in ra đến hai ba ngàn cuốn và phát hành hết. Còn chúng tôi đường ai nấy đi, lặng lẽ rời Quảng Nam mà cho mãi đến bây giờ tôi không còn nhớ cái ngày chia tay ấy là ngày nào. Mà chị Ý Nhi đã có thơ rồi. Ra đi/ Như con thuyền rời bến khi ngày vừa rạng/ Sóng chạm vào doi cát lời từ biệt (Nguyện ước).

Chẳng có ai trong đời mong muốn chia ly, và cũng chẳng có ai thích thú gì với sự chia ly. Nhưng thế giới này có bao giờ kết thúc mọi chuyển dịch. Sóng có bao giờ yên, suối sông làm sao hết lở bồi. Nơi trú ngụ thời gian chính là nơi thường trực tiếng nói hợp - tan, bồi - lở. Nếu như tiếng chuông giáo đường rung lên, là giả dụ thế thôi, để đánh thức cuộc đời thưởng nhật một ăn năn, một khát khao về một thần khải thượng đế nào đó, thì mọi thanh âm của bể dâu khôn lường cũng chính là nỗi đau thường trú nội tại của thi sĩ. Tiếng sóng chạm vào, vỗ vào doi cát là công việc bình thường tự nhiên ngày ngày của biển hò reo cùng lũ còng hoang dại. Nhưng ai nghe ra đấy là ký hiệu thanh âm của một lời từ biệt khi thế giới và trái tim thi sĩ gợi mở một tương quan nào đó. Mọi khả năng thường nghiệm chỉ là những hạn giới trong cái nhãn quan thịt xương hữu hạn của con người. Chỉ có siêu nghiệm mới đủ sức làm thăng hoa mọi mỹ cảm. Mỗi một ra đi là một lần từ biệt, sóng ấy vỗ liên hồi trên dòng sông đời người, vừa tiềm ẩn nỗi bất an; nhưng lại có thể gây thành men thành khói cho một niềm hoan lạc. Để cỏ/ Có thể xanh tựa hồ nước mắt/ Để dấu chân người/ Im giữ niềm bí mật.

Một tuyển thơ của Ý Nhi tự tuyển chọn ra có thể là chưa đến hồi chung cuộc cho một cuộc đời thơ còn trải dài về phía trước. Dường như hầu hết thơ chị, nơi đâu cũng thấy cái ý hướng thi sĩ khát khao đạt đến một thứ nghệ thuật mà các nhà thơ phương Tây thường gọi là nghệ thuật của sự tiềm ẩn (ký hiệu). Đấy là sự ngập ngừng giữa thanh âm và ngữ nghĩa. Chọn lựa thủ pháp để ngôn từ tạo ra những hình ảnh của sự đa nghĩa. Sự kiệm lời trong thơ Ý Nhi là một đặc trưng nổi bật một cá tính. Bằng cách thế đó tác giả tác động vào lòng người thưởng ngoạn sự hụt hẫng, để gợi mở ra trường liên tưởng hiển lộ những tinh thể của sức sáng tạo. Có vẻ như niềm ưu tư từ những tập thơ của Ý Nhi đã dắt tôi đi quá xa cái “mái hiên” thơ mà nhà thơ đã tạo dựng. Thiếu đi một trái tim luôn hướng tới siêu việt thì nói gì văn chương chữ nghĩa, hoặc là các thứ danh thậm xưng nhà này, nhà kia. Vâng, thơ ấy, người ấy là một. Mọi ngữ ngôn như những cánh cửa mở toang tâm hồn. Bạn có thể gặp quê nhà trong ấy, tình yêu trong ấy, lòng nhân ái tràn trề trong ấy. Từ tốn, bao dung và điềm tĩnh; lúc nào tôi cũng thường bắt gặp một hình ảnh thi sĩ nơi chị, một kẻ luôn khởi đầu một ra đi, một khởi hành bất chấp tuổi tác đã hoàng hôn.

Đã muộn rồi ánh nhìn/ Đã muộn rồi lời yêu/ Đã muộn rồi bước chân/...Ai còn gọi chi lạc giọng giữa chiều.

N.N.T